Bảng Chữ Cái Tiếng Việt đầy đủ Với Các Nguyên Tắc Phát âm, Viết Cơ Bản Nhất Cần Nhớ
Bảng chữ cái Tiếng Việt, bạn cảm thấy bảng chữ cái của chúng ta có rắc rối hay khó khăn? Đa số người nước ngoài khi học tiếng Việt đều cảm thấy rất khó khăn, vậy bạn nghĩ điều này là vì lí do gì?
Bảng chữ cái với 29 chữ cái là bài học đầu đời với trẻ con khi chúng được học tiếng Việt. Là một phụ huynh có con nhỏ chuẩn bị vào lớp học văn hoá bạn muốn con mình biết đọc, biết viết bảng chữ cái và xa hơn nữa là học tốt hơn. Vậy cách phát âm của 29 chữ cái, cùng những lưu ý gì bạn cần nhớ khi dạy con học bảng chữ cái là gì? Bạn cần biết và nắm đúng kiến thức để không làm con mình bị lệch hướng ngay từ đầu.
Chúng tôi lessonopoly sẽ giúp bạn giải quyết tất cả những lo lắng bên trên, hãy cùng đi vào bài viết sau.
Cấu tạo bảng chữ cái tiếng Việt chuẩn 2020
Theo Bộ Giáo dục & Đào tạo thì hiện nay bảng chữ cái Tiếng Việt gồm 29 chữ cái.
Các chữ cái trong bảng chữ cái đều có hai hình thức được viết: viết nhỏ và viết in lớn.
– Chữ viết in lớn người ta gọi là chữ hoa – chữ in hoa – chữ viết hoa đều là những tên gọi của kiểu viết chữ in lớn.
– Chữ viết nhỏ hay gọi là chữ thường – chữ in thường.
Các nguyên âm trong bảng chữ cái tiếng Việt
– Bảng chữ cái tiếng Việt mới nhất hiện nay gồm:
+ 12 nguyên âm đơn: a, ă, â, e, ê, i, y, o, ô, ơ, u, ư.
+ 03 nguyên âm đôi với các cách viết cụ thể là: ua – uô, ia – yê – iê, ưa – ươ.
Phụ âm trong bảng chữ cái tiếng Việt
Trong bảng chữ cái tiếng Việt phần lớn các phụ âm, đều được ghi bằng một chữ cái duy nhất đó là: b, t, v, s, x, r…
Ngoài ra còn có chín phụ âm được viết bằng hai chữ cái đơn ghép lại: ph, th, tr, gi, ch, nh, ng, kh, gh và một phụ âm được ghép lại bằng 3 chữ cái là Ngh (nghề nghiệp).
Không chỉ có thế mà còn có ba phụ âm được ghép lại bằng nhiều chữ cái khác nhau cụ thể là:
– /k/ được ghi bằng:
K khi đứng trước i/y, iê, ê, e (kí/ ký, kiêng, kệ,…);
Q khi đứng trước bán nguyên âm u (qua, quốc, que…)
C khi đứng trước các nguyên âm còn lại (cá, cơm, cốc,…)
– /g/ được ghi bằng:
Gh khi đứng trước các nguyên âm i, iê, ê, e (ghi, ghiền, ghê,…)
G khi đứng trước các nguyên âm còn lại (gỗ, ga,…)
– /ng/ được ghi bằng:
Ngh khi đứng trước các nguyên âm i, iê, ê, e (nghi, nghệ, nghe…)
Ng khi đứng trước các nguyên âm còn lại (ngư, ngả, ngón,…)
Dấu thanh trong bảng chữ cái Tiếng Việt
– Trong bảng chữ cái tiếng Việt có 5 dấu thanh là: Dấu sắc, dấu huyền, dấu hỏi, dấu ngã, dấu nặng.
– Quy tắc đặt dấu thanh trong tiếng Việt:
+ Nếu trong từ có một nguyên âm thì đặt dấu ở nguyên âm: u, ngủ, nhú,…
+ Nếu nguyên âm đôi thì đánh vào nguyên âm đầu tiên: ua, của,…
Các từ như “quả” hay “già” thì “qu” và “gi” là phụ âm đôi kết hợp nguyên âm “a” nên dấu sẽ được đặt ở nguyên âm.
+ Nếu nguyên âm 3 hoặc nguyên âm đôi cộng với 1 phụ âm thì dấu sẽ đánh vào nguyên âm thứ 2. Ví dụ: khuỷu thì dấu sẽ nằm ở nguyên âm thứ 2
+ Nếu là nguyên âm “ê” và “ơ” được ưu tiên khi thêm dấu: “thuở” theo nguyên tắc dấu sẽ ở “u” nhưng do có chữ “ơ” nên đặt tại “ơ”.
Bảng 29 chữ cái tiếng Việt theo chuẩn Bộ GD&ĐT
Bảng chữ cái Tiếng Việt chuẩn có 29 chữ cái, 10 số và 5 dấu thanh câu. Chữ viết là hệ thống các ký hiệu dùng ghi lại ngôn ngữ dạng văn bản, là sự miêu tả lại ngôn ngữ thông qua các ký hiệu hoặc biểu tượng.
Chữ viết trong mỗi ngôn ngữ được cấu thành từ bảng chữ cái đặc trưng của ngôn ngữ đó. Đối với mỗi người học ngoại ngữ thì việc làm quen với bảng chữ cái sử dụng cho ngôn ngữ đó là việc đầu tiên hết sức quan trọng.
Tương tự như vậy tiếng Việt muốn sử dụng được bạn phải học cách viết cách đọc bảng chữ cái, sau đây sẽ là bảng chữ cái đầy đủ nhất cho bạn.
Bảng chữ cái tiếng Việt in hoa và in thường
Chữ in hoa và in thường cũng là điều chúng ta cũng cần nắm vững khi học bảng chữ cái, vì trong văn Viết, nhiều danh từ hay sau dấu câu chúng ta phải đảm bảo nguyên tắc ngữ pháp là viết in hoa.
Cách đọc bảng chữ cái tiếng Việt
Tên chữ và cách phát âm sao cho chuẩn là điều bạn cần nhớ khi muốn dạy bảng chữ cái cho ai đó. 29 chữ cái với cách phát âm hoàn toàn khác nhau, ngoài ra còn có các dấu thanh đi theo, hãy cố gắng phát âm chuẩn, bạn có thể tham khảo bảng ở bên dưới.
STT | Viết thường | Viết hoa | Tên chữ | Phát âm |
1 | a | A | a | a |
2 | ă | Ă | á | á |
3 | â | Â | ớ | ớ |
4 | b | B | bê | bờ |
5 | c | C | xê | cờ |
6 | d | D | dê | dờ |
7 | đ | Đ | đê | đờ |
8 | e | E | e | e |
9 | ê | Ê | ê | ê |
10 | g | G | giê | giờ |
11 | h | H | hát | hờ |
12 | i | I | i/i ngắn | i |
13 | k | K | ca | ca/cờ |
14 | l | L | e-lờ | lờ |
15 | m | M | em mờ/e-mờ | mờ |
16 | n | N | em nờ/ e-nờ | nờ |
17 | o | O | o | o |
18 | ô | Ô | ô | ô |
19 | ơ | Ơ | ơ | ơ |
20 | p | P | pê | pờ |
21 | q | Q | cu/quy | quờ |
22 | r | R | e-rờ | rờ |
23 | s | S | ét-xì | sờ |
24 | t | T | tê | tờ |
25 | u | U | u | u |
26 | ư | Ư | ư | ư |
27 | v | V | vê | vờ |
28 | x | X | ích xì | xờ |
29 | y | Y | i/i dài | i |
Những chú ý trong phát âm và đánh vần Tiếng Việt
Cách đánh vần các chữ trong Tiếng Việt
– (Nguyên âm đơn/ ghép) + dấu: Ô!, Ai, Áo, Ở,…
– (Nguyên âm đơn/ ghép + dấu) + phụ âm: ăn, uống, ông…
– Phụ âm + (nguyên âm đơn/ ghép) + dấu: da, hỏi, cười…
– Phụ âm + (nguyên âm đơn/ ghép + dấu) + phụ âm: cơm, thương, không, nguyễn.
Cách đọc các nguyên âm như sau
Trong 12 nguyên âm đơn và 03 nguyên âm đối thì cách phát âm có những lưu ý sau:
– a và ă là hai nguyên âm có cách đọc gần giống nhau từ trên căn bản vị trí của lưỡi cho đến độ mở của miệng, khẩu hình phát âm.
– Hai nguyên âm ơ và â cũng tương tự giống nhau, đọc âm ơ thì dài còn âm â thì ngắn hơn.
– Với các nguyên âm có dấu là: ư, ơ, ô, â, ă thì bạn cần đặc biệt chú ý bởi chúng không có trong bảng chữ cái và đặc biệt khó nhớ nhất là với người nước ngoài.
– Trong chữ viết tất cả các nguyên âm đơn đều chỉ xuất hiện một mình trong các âm tiết và không lặp lại ở cùng một vị trí gần nhau. Nhưng với tiếng Anh thì các chữ cái có thể xuất hiện nhiều lần, thậm trí đứng cùng nhau như: look, zoo, see,… còn Tiếng Việt thuần chủng thì không có, nếu có thì hầu hết đều vay mượn được Việt hóa như: quần soóc, cái xoong, kính coong,…
– Hai âm “ă” và âm “â” không đứng một mình trong chữ viết Tiếng Việt.
– Khi dạy cách phát âm, dựa theo độ mở của miệng và theo vị trí của lưỡi để dạy cách phát âm. Cách miêu tả vị trí mở miệng và của lưỡi sẽ giúp học viên dễ hiểu cách đọc, dễ dàng phát âm. Để học tốt những điều này cần tới trí tưởng tượng phong phú của học viên bởi những điều này không thể nhìn thấy bằng mắt được mà thông qua việc quan sát để thấy được.
Lịch sử hình thành chữ Quốc Ngữ
Các dạng chữ viết tiếng Việt đã từng được sử dụng trong lịch sử trước chữ Quốc ngữ
Chữ Hán
Vai trò của chữ Hán để ghi chép tiếng Việt chủ yếu là ghi lại các yếu tố Hán – Việt có trong văn bản Nôm, chữ Hán cũng là thành tố quan trọng để tạo ra chữ Nôm.
Từ đầu công nguyên đến thế kỷ X, Việt Nam chịu sự đô hộ của phong kiến Trung Hoa, chữ Hán và tiếng Hán được giới quan lại cai trị áp đặt sử dụng nhằm muốn đồng hóa dân ta. Theo Đào Duy Anh thì nước Việt bắt đầu có Hán học khi viên Thái thú Sĩ Nhiếp (137 – 226) đã dạy dân Việt thi thư. Trong khoảng thời gian hơn một ngàn năm, hầu hết các bài văn khắc trên tấm bia đều bằng chữ Hán.
Có ý kiến cho rằng chữ Hán đã hiện diện ở Việt Nam từ trước Công nguyên, dựa trên suy diễn về dấu khắc được coi là chữ trên một con dao găm. Tuy nhiên đó là lúc chữ Hán chưa hình thành, và trên các trống đồng Đông Sơn có thời kỳ 700 TCN – 100 SCN thì hiện diện “các chữ của người Việt cổ” chưa được minh giải, và chưa có tư liệu xác định vào thời kỳ trước Công nguyên cư dân Việt cổ đã sử dụng chữ.
Từ sau thế kỷ thứ X, Việt Nam giành được độc lập tự chủ, nhưng chữ Hán và tiếng Hán vẫn tiếp tục là một phương tiện chính trong việc ghi chép và trước tác. Đến cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20 thì bị thay thế bởi chữ Quốc ngữ. Nền khoa bảng Việt Nam dùng chữ Hán chấm dứt ở kỳ thi cuối cùng năm 1919.
Chữ Nôm
Chữ Hán mặc dù có sức sống mạnh mẽ nhưng với một văn tự “ngoại lai” không thể nào đáp ứng trước đòi hỏi, yêu cầu của việc trực tiếp ghi chép hoặc diễn đạt lời ăn tiếng nói cùng tâm tư, suy nghĩ và tình cảm của người Việt, điều này khiến chữ Nôm ra đời để bù đắp vào chỗ mà chữ Hán chưa hề đáp ứng được.
Chữ Nôm là một loại văn tự xây dựng trên cơ sở đường nét, thành tố và phương thức cấu tạo của chữ Hán để ghi chép từ Việt và tiếng Việt. Quá trình hình thành chữ Nôm có thể chia thành hai giai đoạn:
Giai đoạn đầu, tạm gọi là giai đoạn “đồng hóa chữ Hán”, tức là dùng chữ Hán để phiên âm các từ Việt thường là tên người, tên vật, tên đất, cây cỏ chim muông, đồ vật,… xuất hiện thưa thớt trong văn bản Hán. Những từ chữ Nôm này xuất hiện vào thế kỷ đầu sau Công nguyên rõ nét nhất vào thế kỷ thứ 6.
Giai đoạn sau bên cạnh việc tiếp tục dùng chữ Hán để phiên âm từ tiếng Việt, đã xuất hiện những chữ Nôm tự tạo theo một số nguyên tắc nhất định. Loại chữ Nôm tự tạo này, sau phát triển theo hướng ghi âm, nhằm ghi chép ngày một sát hơn, đúng hơn với tiếng Việt. Từ thời Lý thế kỷ thứ XI đến đời Trần thế kỷ XIV thì hệ thống chữ Nôm mới thực sự hoàn chỉnh.
Theo sử sách đến nay còn ghi lại được một số tác phẩm đã được viết bằng chữ Nôm như đời Trần có cuốn Thiền Tông Bản Hạnh. Đến thế kỷ 18 – 19 chữ Nôm đã phát triển tới mức cao, át cả địa vị chữ Hán. Các tác phẩm như hịch Tây Sơn, Khoa thi hương dưới thời Quang Trung (1789) đã có bài thi làm bằng chữ Nôm. Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng được viết bằng chữ Nôm là những ví dụ.
Chữ Hán và chữ Nôm có những khác nhau cơ bản về lịch sử ra đời, mục đích sử dụng và mỗi chữ có bản sắc riêng về văn hóa…
Chữ Quốc ngữ ra đời
Chữ Quốc ngữ là bộ chữ hiện dùng để ghi tiếng Việt dựa trên các bảng chữ cái của nhóm ngôn ngữ Rôman với nền tảng là ký tự Latinh.
Khởi nguồn của chữ Quốc ngữ từ việc chế tác chữ quốc ngữ Việt Nam là một công việc tập thể của nhiều linh mục dòng Tên người Châu Âu. Trong công việc này có sự hợp tác tích cực và hiệu quả của nhiều người Việt Nam, trước hết là các thầy giảng Việt Nam (giúp việc cho các linh mục người Âu), truyền giáo.
Alexandre De Rhodes đã có công lớn trong việc góp phần sửa sang và hoàn chỉnh bộ chữ Quốc Ngữ. Đặc biệt là ông đã dùng bộ chữ ấy để biên soạn và tổ chức in ấn lần đầu tiên cuốn Từ điển Việt – Bồ Đào Nha – Latinh (trong đó có phần về ngữ pháp tiếng Việt) và cuốn “Phép giảng tám ngày”. Xét về góc độ ngôn ngữ thì cuốn diễn giảng vắn tắt về tiếng An Nam hay tiếng đàng ngoài (in chung trong từ điển) có thể được xem như công trình đầu tiên khảo cứu về ngữ pháp còn cuốn “Phép giảng tám ngày” có thể được coi như tác phẩm văn xuôi đầu tiên viết bằng chữ Quốc Ngữ, sử dụng lời văn tiếng nói bình dân hàng ngày của người Việt Nam ở thế kỷ 17.
Tuy chữ Quốc ngữ của Alexandre De Rhodes năm 1651 trong cuốn từ điển Việt-Bồ-La đã khá hoàn chỉnh nhưng cũng phải chờ đến từ điển Việt-Bồ-La xuất bản năm 1772, tức là 121 năm sau, với những cải cách quan trọng của Pigneau de Behaine thì chữ Quốc ngữ mới có diện mạo giống như hệ thống chữ hiện nay.
Sự kiện đánh dấu vị thế chữ Quốc ngữ là khi người Pháp xâm chiếm Nam Kỳ vào cuối thế kỷ 19. Ngày 22 tháng 2 năm 1869 Phó Đề đốc Marie Gustave Hector Ohier ký nghị định bắt buộc dùng chữ Quốc ngữ thay thế chữ Nho trong các công văn ở Nam Kỳ.
Nghị định 82 do Thống đốc Nam Kỳ Lafont ký ngày 06/04/1878 cũng đề ra mốc hẹn trong bốn năm (tức tới năm 1882) thì phải chuyển hẳn sang chữ Quốc ngữ. Đến thế kỷ 20 thì chính phủ Đông Pháp mở rộng chính sách dùng chữ Quốc ngữ, giao cho Nha Học chính giảng dạy ở Bắc Kỳ từ năm 1910.
Việc cổ động cho học “chữ Quốc ngữ” ở toàn nước Việt gắn với các phong trào cải cách trong giai đoạn 1890 – 1910 như Hội Trí Tri, phong trào Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục và ngành báo chí mới hình thành, đã thừa nhận và cổ vũ học “chữ Quốc ngữ”, và coi nó là phương tiện thuận lợi cho học hành nâng cao dân trí .
Theo tư liệu trong “Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Hội Truyền bá Quốc ngữ (25/5/1938)” do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức ngày 25/5/2008, thì Hội ra đời ngày 25/5/1938, đến ngày 29/7/1938 Thống sứ Bắc Kỳ công nhận sự hợp pháp của Hội. Đó là dấu mốc chắc chắn cho vị thế “chữ Quốc ngữ”.
Tiếng Việt hiện nay có 6 thanh điệu: ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng và tương đối khó phát âm đối với những người mà tiếng Việt không phải là tiếng mẹ đẻ. Ngày nay do sử dụng ký tự Latinh (a, b, c…) của chữ Quốc ngữ, việc giao tiếp ngôn ngữ trên internet trở nên dễ dàng hơn so với các bộ chữ tượng hình như chữ Nôm, chữ Hán đã dùng trong quá khứ.
Các mẫu bảng chữ cái Tiếng Việt đẹp
Để việc học chữ cái trở nên thú vị và hấp dẫn tạo kịch thích khám phá cho bé, bạn có thể dùng những bảng chữ cái có kèm hình và màu sắc tượng trưng cho mỗi chữ bạn sẽ dễ dàng lấy ví dụ hơn cho bé.
Cách dạy bé bảng chữ cái tiếng Việt
Bảng chữ cái với 29 chữ cái cùng dạng viết hoa và viết thường, tuy với số lượng không nhiều nhưng để bé bắt đầu với những bước đầu tiên thì chúng ta cần phải dạy cho bé một cách chính xác và đúng nhất, bởi những gì chúng học được là nền tảng của tất cả mọi thứ về sau. Rất nhiều nguyên âm đọc và phát âm hoàn toàn gần như giống nhau nên khó để bé có thể nhận định hơn, và nhiều hơn là cách viết và ghép từ.
Bạn có thể tham khảo nhiều hơn cách dạy bé học bảng chữ cái tại đây:
Bảng chữ cái tiếng Việt chỉ với 29 chữ cái là nền tảng của tất cả mọi từ vựng sau này. Số lượng tuy ít nhưng với trẻ con học cách phát âm và viết, hay cách ghép chúng lại với nhau là điều khá khó khăn nếu chúng ta không có cách dạy đúng kiến thức. Hy vọng với phần kiến thức ở trên bạn sẽ có cách dạy con mình tốt nhất nhé.