Kinh nghiệm du lịch Hòa Bình (Cập nhật 08/2021) | Phượt Hòa Bình tự túc
Cùng Phượt – Hòa Bình là một trong bốn tỉnh của Việt Nam mà trong đó người Việt (Kinh) không chiếm đa số, đồng thời tỉnh này cũng được coi là thủ phủ của người Mường, vì phần lớn người dân tộc Mường sống tập trung chủ yếu ở đây. Người Mường xét về phương diện văn hóa – xã hội là dân tộc gần gũi với người Kinh nhất. Địa bàn cư trú của người Mường ở khắp các địa phương trong tỉnh, sống xen kẽ với người Kinh và các dân tộc khác. Khá gần Hà Nội với một số địa điểm du lịch Hòa Bình nổi tiếng như Thung Nai, Mai Châu, Kim Bôi… nên các bạn có thể dễ dàng sắp xếp một chuyến đi nghỉ ngơi vào cuối tuần cùng gia đình và bạn bè.
Giới thiệu chung về Hòa Bình
Trên lòng hồ thủy điện Hòa Bình (Ảnh – __lllien)
Hoà Bình là tỉnh miền núi phía Tây Bắc của Tổ quốc, giáp ranh Thủ đô Hà Nội, với diện tích tự nhiên là 4.662,53km2, gồm 10 huyện và 1 thành phố, có nhiều cư dân các dân tộc anh em cùng chung sống. Sau khi được tái lập năm 1991, Hoà Bình đã trở thành cửa ngõ giao lưu giữa các tỉnh Tây Bắc, đồng bằng châu thổ sông Hồng và tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh thông qua mạng lưới giao thông đường bộ.
Với cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, kỳ thú, Hoà Bình còn có nhiều lợi thế trong phát triển du lịch. Thiên nhiên đã ban cho Hòa Bình nhiều cảnh quan kỳ thú như: hang Trại (Lạc Sơn), hang Đồng Nội (Lạc Thuỷ),… với những dấu tích của văn hoá Hoà Bình, những bản làng của đồng bào Thái (bản Lác, bản Poom Coọng ở Mai Châu), đồng bào Mường (bản Giang Mỗ, Cao Phong). Suối nước khoáng Kim Bôi (Kim Bôi) vừa là điểm du lịch, điều dưỡng, vừa là nguồn nguyên liệu có giá trị cung cấp cho ngành sản xuất nước giải khát. Đặc biệt, công trình thuỷ điện Hoà Bình – “công trình thế kỷ” và hồ thuỷ điện Hoà Bình có nhiều cảnh quan tươi đẹp, hấp dẫn. Những cảnh quan trên cùng với những sản phẩm thủ công mang đậm bản sắc văn hoá các dân tộc Hoà Bình (hàng thổ cẩm, rượu cần Hoà Bình,…) đã cho thấy tiềm năng phong phú của du lịch Hoà Bình.
Thành phố Hòa Bình nhìn từ đập thủy điện (Ảnh – mrgreendatto)
Hoà Bình còn tự hào là “nôi” của nền Văn hoá Hoà Bình, miền đất sinh sống của người Việt cổ cách đây hàng vạn năm, với những di chỉ khảo cổ có giá trị, những giá trị văn hoá phi vật thể phong phú, độc đáo, những danh lam, thắng cảnh kỳ vĩ, lôi cuốn, những sản vật độc đáo, là những điều kiện lý tưởng để phát triển nhiều loại hình du lịch.
Nổi bật nhất ở Hòa Bình phải kể đến các phong tục tập quán, các nét văn hóa của người Mường, dân tộc có cùng nguồn gốc với người Việt cổ, có chung một nền văn hóa rộng lớn, trải dài suốt bao thế kỷ. Người Mường chủ yếu cư trú ở các vùng thung lũng, những dải đồi thấp ven núi, vì vậy từ trước tới nay, cư dân Mường sống bằng nghề nông nghiệp, trồng lúa và kết hợp làm nương rẫy.
Bản làng của người Mường thường được tập trung ở chân núi với hướng nhà nhìn ra cánh đồng hay dòng suối. Chính vì điều kiện cư trú như vậy, nên nền văn hóa Mường mang đậm nét bản địa, bó gọn lại trong các Mường và lưu truyền nó qua cuộc sống hàng ngày ,hết sức giản dị mộc mạc độc đáo và là một trong những điều hấp dẫn du khách nhất khi đến du lịch Hòa Bình.
Du lịch Hòa Bình vào thời gian nào ?
Nếu cần tránh cái nóng oi ả của miền Bắc, Hòa Bình là một lựa chọn không tồi với nhiều phương án để các bạn cân nhắc (Ảnh – hoanglanpham910)
Hoà Bình nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với các đặc trưng thời tiết nóng, ẩm, có mùa đông lạnh. Khí hậu mùa hè thường cao, có mưa nhiều trong khoảng tháng 7-8. Mùa đông lạnh và khô thường khéo dài từ tháng 10-3.
- Các bạn có thể đi du lịch Hòa Bình vào mùa hè nếu bạn muốn tránh xa cái nóng của Hà Nội để lên với các điểm du lịch như Thung lũng Mai Châu, Thung Nai
- Nếu muốn theo dõi hồ Hòa Bình xả lũ, hãy đi vào mùa mưa theo thông tin được dự báo thời tiết đưa ra hàng ngày trên bản tin thời sự.
- Lễ hội Chùa Tiên (Lạc Thủy – Hòa Bình) diễn ra từ 4-6 tháng Giêng (âm lịch).
- Khoảng tháng 7-8 hàng năm là mùa mưa cao điểm của miền núi phía Bắc, QL6 đi Hòa Bình là một trong những tuyến đường rất nguy hiểm do thường xuyên sạt lở. Các bạn nếu có đi Hòa Bình vào thời điểm này cần hết sức lưu ý.
Ngoài những thời điểm này ra, các bạn muốn đi du lịch Hòa Bình có thể sắp xếp thời gian đi vào bất cứ lúc nào rảnh bởi đây là một địa điểm khá gần Hà Nội, phù hợp cho các hoạt động nghỉ dưỡng cuối tuần.
Hướng dẫn đi tới Hòa Bình
Quốc lộ 6 là tuyến đường huyết mạch dẫn tới Hòa Bình (Ảnh – Trang Congminh)
Phương tiện cá nhân
Có lẽ do khoảng cách gần nên hầu hết mọi người du lịch Hòa Bình đều lựa chọn phương tiện cá nhân để di chuyển. Trung tâm Tp Hòa Bình cách Hà Nội khoảng 60km, với thời gian di chuyển khoảng 1,5-2 tiếng các bạn đã có mặt ở đây. Nếu đi Mai Châu thì quãng đường xa hơn, khoảng 130km và 5 tiếng di chuyển.
Từ Hà Nội các bạn có thể lựa chọn đi theo hướng Hà Đông thẳng QL6 (trên Google Maps ký hiệu là AH13) để lên Hòa Bình hoặc đi theo đường đại lộ Thăng Long, hết đường thì rẽ trái theo hướng đi Xuân Mai để nhập vào QL6 đi tiếp.
Phương tiện công cộng
Từ bến xe Mỹ Đình, hàng ngày có rất nhiều các tuyến xe chạy lên Hòa Bình (Bến xe Chăm Mát), các tuyến huyện cũng có nhưng thời gian chạy sẽ thưa hơn nên các bạn cần liên hệ trước để hỏi chính xác giờ.
Xem thêm bài viết: Các tuyến xe chất lượng cao đi Hòa Bình (Cập nhật 8/2021)
Đi tới Thung Nai
Thung Nai nằm cách trung tâm Tp Hòa Bình khoảng 20km, nếu muốn đến Thung Nai bằng phương tiện công cộng các bạn cứ bắt xe khách lên Hòa Bình. Từ bến xe đi xe ôm (nếu có 1 mình) hoặc taxi tới cảng Thung Nai.
Đi tới Mai Châu
Bến xe Mỹ Đình có tuyến xe đi Mai Châu nhưng thường chạy vào buổi sáng, nếu không thể kịp đi những chuyến này, các bạn có thể lựa chọn các xe khách Điện Biên hoặc xe khách Sơn La để có thời gian đi muộn hơn (thường là từ chiều đến tối). Sau khi lên xe các bạn nhớ nói lái xe cho xuống ở Ngã 3 Tòng Đậu, từ đây vào đến Thị trấn Mai Châu còn 5km nữa nên có thể đi taxi hoặc xe ôm.
Thuê xe máy ở Hòa Bình
Ở Tp Hòa Bình không có nhiều địa điểm cho thuê xe máy lắm do thực tế thì nhu cầu không cao, không có nhiều địa điểm du lịch quanh Tp Hòa Bình để các bạn cần thiết phải thuê xe máy khám phá. Với các bạn ở nơi xa (trong miền Nam, miền Trung ra Hà Nội đi du lịch Tây Bắc) nếu cần xe máy, các bạn nên thuê từ Hà Nội sẽ tiện hơn.
Xem thêm bài viết: Các cửa hàng cho thuê xe máy ở Hòa Bình (Cập nhật 8/2021)
Lưu trú ở Hòa Bình
Khách sạn nhà nghỉ ở Hòa Bình
Như bao vùng đất du lịch khác, hệ thống cơ sở lưu trú trên địa bàn Hòa Bình khá đầy đủ. Không có nhiều các khu resort với những sự đầu tư hoành tráng cùng dịch vụ đẳng cấp như các vùng đồng bằng, khách sạn ở Hòa Bình thường chỉ ở mức tầm trung, đủ để đáp ứng nhu cầu cơ bản của du khách.
Hệ thống các khách sạn nhà nghỉ trải dài, nằm trên địa bàn tất cả các huyện thị nên trên hành trình khám phá Hòa Bình, các bạn có thể dừng lại nghỉ ở bất cứ đâu mà không phải lo việc không có chỗ nghỉ nhé.
Một số khách sạn tốt ở thành phố Hòa Bình
Xem thêm bài viết: Các khách sạn nhà nghỉ ở Hòa Bình (Cập nhật 8/2021)
Homestay ở Hòa Bình
Hòa Bình là một trong những nơi đầu tiên mà dịch vụ homestay phát triển mạnh, đặc biệt là ở Mai Châu. Bởi văn hóa của Hòa Bình mang đậm dấu ấn của người Mường, người Thái nên hình thức lưu trú này cũng hình thành từ trong chính quá trình sinh sống và phát triển du lịch của họ.
Các homestay ở Hòa Bình thường được xây dựng theo mô hình nhà sàn ngủ tập thể, khách và chủ nhà đều cùng sinh hoạt trong những không gian chung đấy. Khi cần ăn uống có thể đặt luôn nhà chủ để họ chuẩn bị trước cho. Nói chung, nhắc đến du lịch Hòa Bình là phải nhắc đến hình thức du lịch homestay này.
Một số homestay tốt ở Hòa Bình
Xem thêm bài viết: Danh sách homestay ở Hòa Bình (Cập nhật 8/2021)
Các địa điểm du lịch ở Hòa Bình
Du lịch Lương Sơn
Động Đá Bạc
Động Đá Bạc thuộc xóm Đá Bạc xã Liên Sơn, Lương Sơn. Cách thị trấn Lương Sơn 10km và cách Hòa Bình gần 50km. Từ Hà Nội đi theo hướng lên Hòa Bình, đến bưu điện Lương Sơn thì rẽ trái theo đường liên xã qua cầu Treo -> xóm Cời -> xóm Nàng Hang xã Cư Yên -> xóm nước lạnh -> xóm Gò Mè (xã Liên Sơn) là tới được động.
Động Đá Bạc còn có tên gọi khác là động Tiên, nằm trong lòng núi Pai Dáy (hay còn gọi là núi Hang Beo). Đầu năm 1990, một số ngời dân địa phương xóm Đá Bạc đi lấy củi tình cờ đã phát hiện ra di tích động. Cửa động hướng Đông Nam, rộng chừng 1m, cao 2m. Động có chiều dài 65m, chiều rộng từ 4 đến 22m, vòm cao từ 1,5 đến 15m.
Suối Ngọc Vua Bà
Suối Ngọc – Vua Bà khu du lịch thuộc xã Lâm Sơn, Lương Sơn (hiện thuộc Hà Nội). Đây là một quần thể du lịch sinh thái với diện tích 300ha. Rừng cây ở đây bao gồm mỡ, keo, thông và nhiều cây ăn quả phủ kín những quả đồi. Đến đây du khách có thể thả hồn mình vào thiên nhiên, mắc võng nằm dưới tán cây, bơi lội trong những hồ nước tự nhiên rộng vài trăm héc ta.
Khu du lịch Thác Thăng Thiên
Nằm trên dãy núi Viên Nam, cách Hà Nội hơn 50km về hướng Tây , khu du lịch Thác Thăng Thiên (Kỳ Sơn) được bao phủ bởi một cánh rừng nguyên sinh bạt ngàn màu xanh với rất nhiều loài động thực vật phong phú.
Chảy len lỏi giữa rừng núi là dòng suối Anh với làn nước xanh trong mát rượi. Dọc theo suối có 4 thác nước đẹp, hứa hẹn sẽ mang đến cho bạn nhiều khám phá thú vị. Bầu không khí trong lành của thiên nhiên hoang sơ sẽ khiến những mệt mỏi của bạn dường như tan biến.
Sau những giờ phút khám phá, hòa mình cùng thiên nhiên, các bạn có thể thư giãn, nghỉ ngơi trong những ngôi nhà sàn dân dã mang đậm nét dân tộc trong khu du lịch. Không chỉ có thế, khu du lịch còn có một bể bơi rộng nằm ngay giữa rừng núi xanh bạt ngàn. Các bạn thoả sức bơi lội, tham gia một số trò chơi dưới nước…
Nhà máy Thủy điện Hòa Bình
Nhà máy Thủy điện Hoà Bình được xây dựng tại hồ Hòa Bình, trên dòng sông Đà thuộc miền bắc Việt Nam. Trước khi nhà máy thủy điện Sơn La khánh thành đây là nhà máy thủy điện lớn nhất Việt Nam và Đông Nam Á. Nhà máy do Liên Xô giúp đỡ xây dựng và vận hành. Công trình khởi công xây dựng ngày 6 tháng 11 năm 1979, khánh thành ngày 20 tháng 12 năm 1994. Công suất sản sinh điện năng theo thiết kế là 1.920 megawatt, gồm 8 tổ máy, mỗi tổ máy có công suất 240.000 kilowatt. Sản lượng điện hàng năm là 8,16 tỷ kilowatt giờ (KWh).
Tại sân Nhà truyền thống Thủy điện Hòa Bình có một khối bê tông hình thang, trên đó có tấm biển thép khắc chìm dòng chữ: “Nơi lưu giữ bức thư của những người xây dựng Thủy điện Hòa Bình gửi thế hệ mai sau. Thư sẽ được mở vào ngày 1-1-2100”.
Hồ thủy điện Hòa Bình
Hồ Hòa Bình là hồ nhân tạo lớn nhất Đông Nam Á. Hồ có chiều dài 70 km, trải rộng trên địa bàn 17 xã thuộc 5 huyện, thành phố. Trong khu vực lòng hồ có 47 đảo lớn nhỏ, trong đó có 11 đảo đá vôi với diện tích 116 ha và 36 đảo núi đất diện tích gần 160 ha.
Cảnh quan môi trường trên lòng hồ và chung quanh hồ với những cảnh đẹp, mặt nước mênh mang, núi non và những hang động, đền thờ là những điều khiến du lịch lòng hồ thu hút được rất nhiều khách du lịch đến với Hòa Bình.
Bản Bích Trụ
Bản Bích Trụ được coi là cửa ngõ du lịch hồ Hòa Bình. Bản nằm sát nhà máy thủy điện Hòa Bình, cách trung tâm xã khoảng 3,5 km đường bộ và nếu đi đường thủy từ cảng Bích Hạ chỉ khoảng mười mấy phút. Bản có mấy chục hộ dân tộc Mường sinh sống, không gian văn hóa, cảnh quan còn gần như nguyên bản, hầu hết là nhà sàn truyền thống. Bản nằm ở địa hình thoai thoải, sát mép hồ nước trong xanh. Trên khu vực bản có núi non hùng vĩ, còn đây đó rừng già nguyên sinh, nhiều khu đồi gianh, cây me rừng, đồi sim tím ngắt đầy mê hoặc. Ngồi ở bất cứ ngôi nhà nào cũng có thể phóng tầm mắt thấy cả lòng hồ mênh mang, trời xanh ngắt như chạm vào vòng tay với.
Bản Bích Trụ từ lâu nay trở thành điểm khám phá, thưởng ngoạn cho những ai yêu thiên nhiên, tìm cảm giác thư thái trên lòng hồ mênh mang. Bản là địa điểm cho không ít du khách muốn đến thưởng thức các món ăn, sản phẩm của đồng bào dân tộc như cá nướng sông Đà, thịt khô hun khói, gà bản địa chấm ớt lá chanh, mật ong rừng…Vị trí của bản Bích Trụ vừa gần với thành phố lại có thể kết nối đến xóm Rãnh, đi ra động Thăng, xã Hòa Bình, là những khu vực có tiềm năng du lịch văn hóa, tâm linh…
Bảo tàng không gian văn hóa Mường
Bắt nguồn từ niềm cảm hứng sâu sắc của một Hoạ sĩ trẻ với khát vọng tái hiện lại toàn bộ không gian sống của người Mường. Sau 10 năm sưu tầm và gần 1 năm xây dựng. Đến ngày 16-12-2007 Bảo tàng “Không gian Văn hoá Mường” khai trương và chính thức đi vào hoạt động. Bảo tàng nằm trên vạt đồi trong một thung lũng đá vôi nhỏ, hẹp có diện tích 5ha cách trung tâm thành phố Hoà Bình 7km hướng đi Sơn La (nằm trên con đường mới mang tên Đường Tây Tiến). Đây vốn là địa bàn sinh sống của người Mường cổ. Bảo tàng “ Không gian văn hoá Mường” là Bảo tàng tư nhân đầu tiên về văn hóa của dân tộc Mường, một dân tộc có bề dày truyền thống văn hoá trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Công trình được chính chủ nhân của nó bỏ vốn, thiết kế và xây dựng. Bảo tàng được chia làm 2 khu vực chung là:
Khu tái hiện : Gồm 4 khu nhà sàn (nhà Lang, nhà Ậu, nhà Nóc, nhà Nóc trọi) đại diện cho 4 tầng lớp trong xã hội Mường
- Nhà Lang: là tầng lớp có quyền lực cao nhất, nắm quyền thống trị toàn Mường.
- Nhà Ậu: là những người giúp việc cho nhà Lang.
- Nhà Noóc: là tầng lớp bình dân trong xã hội Mường.
- Nhà Nóc Trọi: là tầng lớp bần cùng nhất trong xã hội Mường.
Các ngôi nhà này được sưu tầm và xây dựng từ chính các ngôi nhà cổ thuộc các tầng lớp trong xã hội Mường. Nguyên liệu dùng để làm được lấy từ các loại thảo mộc như: gỗ, tre, nứa, lá…là những loại cây rất gần gũi với người Mường.
Khu trưng bày : Gồm các nhà trưng bày theo chủ đề, trưng bày cố định Trong đó có rất nhiều hiện vật có giá trị như: Cồng, Chiêng, Lư , Ninh bằng đồng…) và nhiều các hiện vật về đời sống sinh hoạt, kinh tế, văn hoá….của người mường như: công cụ đánh bắt cá, công cụ nghề dệt, dụng cụ săn bắn, phòng tang ma, đồ dùng sinh hoạt gia đình, xe nước… Bảo tàng có một thư viện với hơn năm nghìn đầu sách, với nhiều thể loại khác nhau như Văn học, Lịch sử, Khoa học kỹ thuật…Đặc biệt là sách về Văn hóa dân tộc và Văn hóa Mường. Đáp ứng nhu cầu khách tham quan học tập, các nhà nghiên cứu, học sinh, sinh viên. Đến nay Bảo tàng “Không gian Văn hóa Mường” đã sưu tầm và lưu giữ được hơn 3000 hiện vật. Có thể nói Bảo tàng “Không gian Văn hoá Mường” là một trung tâm trưng bày và lưu giữ quý giá về dân tộc Mường ở Hoà Bình nói riêng và ở Việt Nam nói chung. Nơi đây không chỉ là là nơi để thăm quan, giải trí mà còn là nơi để tìm hiểu, nghiên cứu về giá trị Văn hoá truyền thông của dân tộc Muờng. Bảo tàng được triển khai xây dựng và phát triển theo quan niệm mới phù hợp với xu thế phát triển chung của Bảo tàng hiện nay. Khách thăm quan đến đây không chỉ được nhìn, ngắm, xem mà còn thực sự hoà mình vào cuộc sống hàng ngày của người dân Mường như làm nương rẫy, giã gạo, dệt vải, quay sợi, thưởng thức các món ăn dân tộc, hoà mình vào không khí âm nhạc lễ hội, các trò chơi dân gian của người Mường. Lấy “Không gian Văn hoá Mường” làm trung tâm nên cách bày trí đơn giản, gần gũi không cầu kì, không trưng bày trong tủ kính. Nhưng tất cả các chi tiết dù nhỏ nhất ( hàng rào, đường đi, sắp đặt đồ đạc, bàn thờ thổ công…) đều tái hiện lại những nét đặc trưng cơ bản của xã hội Mường về đời sống xã hội, kinh tế, phong tục tập quán của dân tộc Mường – một xã hội Mường thu nhỏ. Vì vậy từ nhân dân các miền trong cả nước, học sinh, sinh viên, cán bộ nghiên cứu… đến khách nước ngoài đều tìm thấy sự hấp dẫn ở đây.
Động Tiên Phi
Động Tiên Phi nằm ở trên đỉnh đồi Thúc hay còn gọi là đồi Thung Phi thuộc xóm Gai, thành phố Hoà Bình. Từ trung tâm thành phố Hoà Bình theo đường Cù Chính Lan, rẽ trái qua cầu Hoà Bình, theo đường Thịnh Lang, rẽ trái theo đường đi xóm Gai, thành phố Hoà Bình khoảng 8km là tới di tích. Gọi là Động Tiên Phi là vì khi du khách đến cửa động bước vào trong mươi bước, ngước nhìn lên phía trước mặt, ngay trên vách động có một dải nhũ đá trông tựa giống nhe một bóng dáng cô tiên trong tư thế bay bổng thật mơ mộng tuyệt đẹp. Cũng chính vì vẻ đẹp huyền diệu đó, mà nhân dân địa phương và ý kiến đóng góp của khách thăm quan, động được đổi tên thành Tiên Phi. Động Tiên Phi nằm trên đỉnh đồi Thúc hay còn gọi là đồi Thung Phi, có độ cao 80m so với mặt ruộng, cửa động quay về hớng Đông Bắc. Từ bãi đỗ xe, đi theo con đờng mòn dốc lên thoai thoải, du khách leo hết dốc đến đỉnh đồi gặp một bãi tơng đối bằng phẳng, hai bên bãi nhân dân ở đây dựng lên các lều quán bằng tre, nứa làm nơi nghỉ chân cho khách thập phơng qua lại thăm động.
Đi tiếp 100m theo dốc lên thoai thoải là đến cửa động, dọc lối lên động là hàng cây phượng vĩ, cây mít, cây bạch đàn và cây tre ngà đan xen nhau xoè tán, phủ lá râm mát hai bên đường. Phía bên trái cửa động là đền trình, đền được tạo lập trong một vòm mái đá, phía trước cửa đền trình là cây cổ thụ xanh tốt. Bên phải là rừng thông xen kẽ cây bạch đàn và bãi cỏ gianh xanh biếc cả một vạt đồi. Sau khi thắp hương xong ở đền trình, du khách sẽ bắt gặp một cửa động, lối vào động là một khe đá hẹp, thoai thoải dốc vào phía trong động. Động được chia làm hai ngăn:
Ngăn ngoài có chiều dài 15m, chiều rộng 8m, vòm trần cao 20m. Lòng động đôi chỗ gồ ghề đá và dốc xuống về phía trong, đất nền màu vàng thẫm, khô ráo, các vách ngăn và vòm trần có nhiều nhũ đá, vân đá, rủ xuống xoè ra lệch góc, lệch cạnh, tạo thành nhiều hình ảnh trông ngộ nghĩnh và rất sinh động. Trên vòm động, gần cửa ra vào có một lối thông lên đỉnh núi làm cho ánh sáng tự nhiên lọt vào mờ mờ, ảo ảo, càng làm ăng thêm vẻ đẹp lấp lánh của các nhũ đá, vân đá mà tọ hoá đã ban cho. Ngăn này cấu trúc nh một nhà chờ cao ráo, thoáng mát như một toà lâu đài tĩnh mịch, vừa trang nghiêm vừa huyền bí mờ mờ, ảo ảo. Ngăn động này không phải là một ngăn động đá đơn điệu mà là thế giới sống động những sinh linh ẩn hiện trong biết bao hình hài bằng đá, hình nh không một nhũ đá nào lại không có ít ra một hình tợng quen thuộc, khiến cho ta liên tưởng đến thế giới của sự sống.
Ngăn trong có chiều dài 53m, chiều rộng 20m, vòm trần cao 10m. Lòng động khá bằng phẳng, nền đất màu vàng thẫm khô ráo, đôi chỗ ẩm ướt bởi những giọt nước từ trên vòm trần nhỏ xuống, đường đi lối lại thông thoáng, dễ dàng, dưới ánh sáng của những ngọn đèn điện mờ ảo, du khách sẽ được đắm mình trong suy tưởng của cái đẹp thiên hình vạn trạng của đá núi của chốn thần tiên, những nhũ đá huyền bí dưới bàn tay gọt đẽo, trạm khắc kỳ phu của tạo hoá, không chỉ tạo nên những tác phẩm điêu khắc, những cung điện, những bức chạm nổi thiên nhiên sinh động mà còn tạo ra các khối kiến trúc độc đáo đó là các chuông đá, cồng đá, cái thì như con đại bàng bay, con voi chầu, voi phục cõng trên lưng con sư tử, con rồng đang trườn mình bay bổng lên không trung. Phía tay phải là những dải nhũ đá từ vòm trần rủ xuống thanh mảnh mềm mại buông xuống như tấm màn the, gõ vào những dải mỏng, rỗng ấy tuỳ theo cách gõ mà vang lên như tiếng chiêng, tiếng cồng vậy. Càng vào trong càng gặp nhiềư những nhũ đá kỳ lạ trông như những hình người, hình cây, những chùm hoa, chùm quả. Tất cả tựa như vườn thượng uyển của vua chúa xưa.
Cuối động là một giếng tiên nước trong vắt, mát lạnh giếng hình bán nguyệt rộng 3m, sâu 30cm. Động Tiên Phi là một kiệt tác mà thiên nhiên tạo lập và ban tặng cho Hoà Bình với những kiệt tác của thiên nhiên làm say đắm lòng du khách, khiến cho du khách không muốn chia tay sớm với một sứ sở thần tiên của đất Mường.
Du lịch Kim Bôi
Khu du lịch suối khoáng Kim Bôi
Khu du lịch Suối khoáng Kim Bôi độc đáo hấp dẫn bởi nguồn nước khoáng từ ngàn xưa trong vắt, không mùi, vô khuẩn, khi vừa lộ thiên nhiệt độ 34 -> 36oC, thành phần chính là Bicacbonat Sunphat Canxi – Magie, thuộc loại nước khoáng giải khát chữa bệnh có lợi cho sức khoẻ con người.
Theo các nhà khoa học, nước khoáng Kim Bôi được xuất lộ ra từ vỉa đá vôi có tuổi địa chất khoảng 250 triệu năm, khi lộ thiên nước có nhiệt độ 34-36 độ C, được đánh giá là suối khoáng có thành phần hóa học ổn định nhất. Qua kiểm nghiệm, nguồn nước khoáng Kim Bôi là điều kiện lý tưởng để phục hồi sức khỏe, giúp chữa các bệnh viêm khớp, đường ruột, dạ dày, huyết áp… Nước suối Kim Bôi đã được đóng chai làm nước giải khát, nó cùng loại với nước khoáng Thạch Bích ở Quảng Ngãi, Kum-dua ở Nga và Paven Banis ở Bulgaria.
Đến đây, du khách có thể nghỉ ngơi và tận hưởng nguồn suối nóng tuyệt vời tại khu du lịch suối khoáng Kim Bôi, khách sạn Công đoàn, Vresort, hoặc các khu nhà nghỉ. Nguồn khoáng nóng phun lên từ độ sâu 175,5 m và được bơm dẫn trực tiếp vào các bể tắm phục vụ du khách. Nhiều người ưa dân dã, lựa chọn những khu nhà nghỉ để gần gũi với thiên nhiên, hơn nữa có thể vừa đắm mình thư giãn, lại vừa có thể nghe tiếng nước phun lên ào ào vô tận từ dưới lòng đất.
Cửu thác Tú Sơn
Cửu thác Tú Sơn được ví như danh thắng “đệ nhất’ xứ Mường với núi non hùng vĩ, suối thác thơ mộng, cùng khí hậu mát mẻ trong lành khiến ai đến đây cũng đều ngỡ như đang lạc bước ở Đà Lạt, hay đắm mình trong sương sớm Sapa.
Cách thành phố Hoà Bình trên 20km khu du lịch sinh thái Cửu Thác Tú Sơn nằm trên địa phận xóm Củ, xã Tú Sơn, Kim Bôi, cạnh đường quốc lộ 12B, gần khu suối khoáng nóng Kim Bôi. Đường lên với Cửu thác, du khách có thể cảm nhận được sự mộc mạc, hoang sơ từ cảnh vật đến cả nếp sống của đồng bào dân tộc nơi đây. Người dân sống quanh khu cửu thác chủ yếu là người Mường.
Thác Tiên
Tắm hùng vĩ và thơ mộng, với nước trong vắt như gương soi.
Thác hồ Âu Cơ
Ở thượng ngàn cửu thác Tú Sơn, cao 1.300m so với mặt nước biển, đây là ngọn thacs huyền bí, nơi còn lưu dấu tích một “quả trứng Âu Cơ” khổng lồ hóa đá nằm giữa suối.
Thác Quan Lang
Trải chiếu bồng bềnh, êm ru như tình yêu quan lang lén lút hò hẹn với người tình bên dòng suối mà người xưa đã lưu lại thành truyền thuyết.
Thác Hồ Út Lót
Gắn liền với câu chuyện tình yêu trắc trở của nàng Út Lót vừa thông minh, vừa xinh đẹp với chàng Hồ Liêu không lấy được nhau hóa thành đôi bướm trắng rập rờn bên suối.
Thác Bạc
Cao hơn 20m, tựa như mái tóc của sơn nữ xứ Mường, được trang điểm cầu kỳ bằng thứ màu bạc lấp lánh. Dòng thác tấu lên những tiếng ầm ầm, ào ào nghe như bản hùng ca của núi rừng Tây Bắc. Chốc chốc hơi nước và ánh nắng lại hòa quyện vào nhau tạo thành những chiếc cầu vồng kỳ ảo.
Động Long Cung
Là một dòng suối cổ xưa chảy từ đầm hồ ba nhánh. Do trên cao đất đá tuôn xuống lấp tắc, làm nước đổi dòng, suối này trở thành hang động huyền ảo.
Khu vườn Thượng Uyển
Đi qua cây cầu treo rung rinh trước gió và gần 200 bậc thang đá là đặt chân tới đây. Nằm ở độ cao 1.000m so với mực nước biển. Khí hậu mát mẻ, dõi mắt về bốn phía là những cánh rừng già nguyên sinh, xanh thẳm mờ sương. Ven suối là những nhà sàn nhỏ xinh nằm im lìm bên những tảng đá như đàn voi đá tranh nhau tắm ngụp dưới dòng nước trong mát.
Thác Thiên Ngọc Thạch
Từ chân thác nhìn lên cao sẽ thấy một hòn đá tròn khổng lồ, màu xanh ngọc, như đang treo lơ lửng giữa trời. Dưới chân thác là không gian mênh mông, huyền ảo, tráng lệ của động Thuỷ Cung, với muôn vàn hoa lá khoe sắc rực rỡ.
Thác hồ Trượng Phu
Cao 100m – dòng thác như từ trên trời buông xuống hồ Tiên Sa rộng 300m2, phía trên hồ Tiên Sa là giếng Ngọc.
Mộ cổ Đống Thếch
Đống Thếch là tên gọi khu mộ Mường cổ thuộc xóm Chiềng Động, xã Vĩnh Đồng, Kim Bôi. “Đống” theo quan niệm của người Mường dùng để chỉ những nơi mồ mả, nơi chôn cất người chết. Còn “Thếch” là địa danh chỉ vùng đất, vì thế mà khu mộ mang tên địa danh là Đống Thếch. Khu mộ Đống Thếch nằm ở phía Tây Bắc thung lũng Mường Động, xã Vĩnh Đồng. Trên đường 12B, cách huyện lỵ huyện Kim Bôi 6km, cách trung tâm thành phố Hoà Bình 24km về phía Đông Nam, từ ngoài đường nhìn vào ta sẽ thấy một thung lũng nhỏ, cao ráo, bằng phẳng, đi sâu vào bên trong ta thấy nhấp nhô hàng trăm hòn mồ cao thấp đứng cùng thời gian mưa nắng, địa thế khu đất khá đẹp, bằng phẳng giao thông đi lại thuận tiện, vây quanh ba mặt khu mộ cổ Đống Thếch là những quả đồi thấp tạo nên một bồn địa nhỏ trong một thung lũng lớn. Khu đất có địa thế, hình dáng miệng rồng, một thế đất theo quan niệm thuật phong thuỷ ngày xưa. Cho nên từ lâu dòng họ quan lang Mường Động đã độc chiếm làm nghĩa địa để làm nơi yên nghỉ cuối cùng của dòng họ mình. Với diện tích rộng vài vạn mét vuông, trải qua nhiều đời khu mộ cổ Đống Thếch đã ẩn chứa hàng trăm ngôi mộ của nhiều thế hệ dòng họ Đinh. Trong đó có nhiều ngôi mộ, xung quanh quanh được chôn nhiều hòn mồ cao lớn như cắm dấu ấn biểu hiện quyền lực của dòng họ lang Mường Động. Đống Thếch trở thành “Thánh địa” riêng của nhà lang, bị cây rừng phủ lên rậm rạp càng trở nên bí hiểm trước con mắt của người dân Mường Động từ đời này sang đời khác, mộ có niên đại sớm nhất là năm 1651. Đặc biệt trong khu mộ cổ có ngôi mộ của tướng quân Chiêu Đống hầu Đinh Công Kỷ là người có công giúp vua Lê Trung Hương chống giặc và xây dựng chiều chính.
Du lịch Cao Phong
Thung Nai
Là một xã lòng hồ sông Đà thuộc huyện Cao Phong, nằm cách Hà Nội khoảng hơn 100km, đường vào Thung Nai sẽ đưa bạn theo hướng đi cảng Bình Than bám dọc sông Đà với khoảng 10km đường núi với cảnh sắc vô cùng đẹp.
Xem thêm bài viết: Kinh nghiệm du lịch Thung Nai (Cập nhật 8/2021)
Bản Mường Giang Mỗ
Cách thành phố Hòa Bình khoảng 10 km, bản Giang Mỗ, xã Bình Thanh, Cao Phong từ lâu đã là điểm đến đầy hấp dẫn, thu hút đông đảo du khách trong nước và quốc tế. Bản nằm khép mình trong thung lũng dưới chân núi Mỗ. Cuộc sống êm đềm của hơn một trăm hộ gia đình người Mường tuy đơn sơ nhưng lại cuốn hút du khách bởi nét văn hóa trong sinh hoạt và lối kiến trúc nhà sàn hiện còn lưu giữ nhiều dấu ấn của nếp nhà Mường cổ trước đây.
Đền bà chúa Thác Bờ
Chúa Thác Bờ tên thật là Đinh Thị Vân con gái một tộc trưởng người Mường – Hoà Bình, năm 1431 Bà tập hợp người Mường và các dân tộc khác ở Hoà Bình quyên góp lương thực vận chuyển quân lương giúp Vua Lê Lợi dẹp giặc ngoại xâm ( Đèo Cát Hãn – Lai Châu)
Vào một ngày trời không yên sóng chẳng lặng thuyền chở đầy lương thực, khi đi qua khu vực hang Miếng sóng to làm vỡ mảng, Bà thác và xác trôi về khi vực Thác Bờ – Thung Nai – Hoà Bình dừng lại ở đó, dân quanh vùng tưởng nhớ người con gái anh hùng đã lập đền thờ nơi đây sau khi vua Lê Lợi thắng trận trở về đã sắc phong Bà là: Hoàng Kim Mẫu Chúa Mường Sơn Trang.
Vào năm 1979 nhà nước quyết định đắp đập ngăn sông làm nhà máy thủy điện Hoà Bình, đền Thác Bờ xưa không còn nữa, một gia đình họ Quách đã phát tâm và nhờ sự đóng góp của thập phương qua 5 lần xây dựng và di chuyển đã xây dựng được đền Bờ ngày nay.
Chợ Bờ
Người dân ở đây giao dịch buôn bán chủ yếu tại chợ Bờ. Chợ chỉ họp vào buổi sáng và tan chợ khi còn khá sớm, khoảng gần 8 giờ là chợ đã thưa người qua lại. Chợ nổi Thác Bờ họp phiên chủ nhật cách bến thuyền Thung Nai chừng 20 phút. Không quá ồn ã tấp nập. Chợ là nơi thông thương của các ghe thuyền trên khắp mặt hồ về đây. Người ta mang đến những sản vật được đánh bắt từ đêm hôm trước.
Suối Trạch
Suối Trạch là một trong những địa điểm không nên bỏ qua khi vào Thung Nai. Nơi đây là bể tắm thiên nhiên lý tưởng với nguồn nước trong, mát lạnh.
Đền Thượng Bồng Lai
Tọa lạc tại chân núi Đầu Rồng, thuộc khu 3, thị trấn Cao Phong, Cao Phong. Cách trung tâm thành phố Hòa Bình khoảng 10km về phía nam, đền Bồng Lai (hay còn gọi là đền Thượng Bồng Lai) thờ Đệ nhị thượng ngàn tiên nương (tức Cô Đôi Thượng Ngàn) và các chư vị tiên thánh Tứ Phủ. Tương truyền, đây là nơi Cô Đôi gặp Thánh Mẫu Đệ nhị (Mẫu Thượng Ngàn) và là nơi hóa của Cô.
Du lịch Tân Lạc
Động Thác Bờ
Động Thác Bờ thuộc xóm Bưng, xã Ngòi Hoa, huyện Tân Lạc, động nằm ngay trên bến Ngọc ở sườn núi phía bắc, trong dãy núi Chủa bên bờ hồ Hòa Bình. Không chỉ gắn với quần thể di tích đền Bờ thờ Bà Chúa thượng ngàn có công giúp vua Lê Lợi dẹp loạn phương Bắc, đây cũng từng là nơi trú chân của nhiều cánh lái buôn ngược xuôi sông Đà khi qua đây gặp sóng to gió lớn. Do đó, động Thác Bờ từ lâu đã thu hút du khách thập phương đến bái vọng và du lịch.
Vào mùa nước cạn, du khách muốn tham quan động phải leo bộ gần 100 bậc đá từ chân núi đến cửa động. Mùa nước dâng, du khách đi từ thuyền sang nhà nổi, trên một bè ghép bằng tre bương chạy dài khoảng 50 m vào thẳng cửa động. Từ trên cửa động, du khách có thể phóng tầm mắt ra xa để thả hồn mình ngắm toàn bộ dải Đà giang kỳ vĩ, thưởng ngoạn những kiệt tác thiên nhiên của tạo hóa với núi non điệp trùng và vẻ đẹp của hang động huyền kỳ.
Động Thác Bờ được chia làm ba khu, ngoài lòng động với những khối nhũ đá còn có khu vực tiếp du khách, lên cao khoảng 50 m là khu thờ Phật. Khu vòm động này khá rộng, có không khí mát lành. Ngoài ban thờ Phật tổ quan âm rất lớn, Quan thế âm Bồ tát, các vị thần linh cai quản vùng này, trong động còn có ban thờ Bác Hồ luôn thơm mùi hoa tươi và hương trầm.
Vào sâu trong động, khám phá những khối thạch nhũ muôn hình vạn trạng được hình thành do cặn của nước nhỏ giọt đọng lại trải qua hàng trăm nghìn năm, mới thấy sức sáng tạo của Mẹ thiên nhiên là vô cùng tận.
Bản Ngòi Hoa
Nằm cách cảng Thung Nai gần một giờ đi tàu trên hồ thủy điện sông Đà, bản Ngòi thuộc xã Ngòi Hoa, huyện Tân Lạc là một trong những bản cổ người Mường đẹp nhất của Hòa Bình, trải qua nhiều thập kỷ nơi đây vẫn là ốc đảo nằm tách biệt sâu trong lòng hồ thuỷ điện Hoà Bình, không có đường bộ, phương tiện đi lại chủ yếu là thuyền tôm, bè mảng, cuộc sống của người dân bản nơi đây tách biệt, cô lập như bị “lãng quên” ở lòng hồ sông Đà hùng vĩ.
Động Hoa Tiên
Di tích động Hoa Tiên di tích toạ lạc trong lòng dãy núi đá vôi, núi Bà thuộc xóm Ngòi, xã Ngòi Hoa, Tân Lạc. Cách nơi di tích toạ lạc khoảng 1km về phía Đông, có một hồ nước rộng, trong xanh dân trong vùng gọi là hồ tiên tắm.Từ hai địa danh đó nhân dân nơi đây đã chọn hai mỹ tự đẹp nhất để đặt tên cho động là động Hoa Tiên.
Muốn thăm quan động du khách có thể đến với di tích bằng 2 tuyến.
- Từ trung tâm thành phố Hoà Bình, theo đường đến bến cảng đập thuỷ điện khoảng 7km…Từ đây du khách theo thuyền ngược lòng hồ sông Đà 27km sẽ đến địa phận xóm Ngòi, xã Ngòi Hoa, huyện Tân Lạc, xuống thuyền đi bộ khoảng 100m nữa là tới động Hoa Tiên.
- Từ trung tâm thành phố Hoà Bình theo quốc lộ 6A tới ngã ba chân dốc Cun khoảng 5km, từ đây theo đường Tây Tiến qua xã Bình Thanh tới xã Thung Nai huyện Cao Phong khoảng 18km. Từ đây du khách có thể đi theo đường vào xã Ngòi Hoa khoảng 11,7km. Từ đây tiếp tục đi bộ ra bến đò xóm Nẻ, dùng thuyền đi khoảng 9km, đến cửa Ngòi du khách có thể theo đường bộ khoảng 3,7km là tới di tích.
Động Hoa Tiên gồm 2 cửa cách nhau 18m: cửa phía Đông nam và cửa phía Nam. Cửa Đông nam có chiều cao 5m; rộng bình 6m. Cửa hư¬ớng Nam cao 6m; rộng 9m. Cửa động cao hơn nền động khoảng 8-10m, muốn vào động du khách phải đi qua cầu thang bằng sắt, bắc ở hai cửa vào.
Ngay khi đặt chân vào trong động du khách hết sức ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tuyệt vời của đá với vô vàn khối nhũ đá, măng đá, cột đá đủ các hình thù kỳ thú, hấp dẫn du khách qua ánh sáng đèn những nhũ đá măng đá, cột đá phản chiếu ánh sáng lấp lánh như đèn màu sân khấu.
Động chính: Với chiều dài 61m; rộng 27m, từ cửa đi vào rẽ trái đi chừng 50m, động được chia thành 2 ngách nhỏ khi vào thăm quan động du khách bắt gặp vô vàn các nhũ đá nơi đây. Các khối có các hình thù vô cùng lý thú. Hình thì như vân vũ, hình như ông Bụt, ông Tiên toạ lạc trên các đám mây hồng ngũ sắc rực rỡ muôn màu. Trên vòm trần ta bắt gặp nhũ đá trông mềm mại rủ từ trên xuống tựa như¬ một chiếc chân váy mầu vàng rực rỡ như vừa được giặt xong vẫn còn vương trên đó những giọt nước li ti đọng lại long lanh.
Ngách động phía Bắc: Có chiều dài 60m; rộng 12m được ngăn cách với động chính bằng một dãy cột đá, măng đá cao xếp thành từng hàng lớn. Qua bức tường tự nhiên này du khách tiến vào lòng động. Nền động gồ ghề bởi các ruộng bậc thang nối tiếp nhau có chiều hơi dốc lên. Động này dài 60m, phía ngoài rất rộng có chỗ tới trên 20m, càng vào trong càng thu hẹp lại. Trần cao trung bình 15m.
Ngay tại đầu ngách này du khách bắt gặp một hồ nước nông, đây là điểm đầu cho cả một dãy dài các hồ nước nhỏ kế tiếp nhau tạo thành các ruộng bậc thang. Nước trong và mát lạnh dưới ánh sáng của đèn động hiện lên lung linh một cách lạ kỳ, du khách choáng ngợp bởi vẻ đẹp kỳ vĩ nơi đây.
Càng vào trong lòng động càng thu nhỏ lại, không gian nơi đây yên tĩnh để không khỏi giật mình trước một vài chú rơi rơi vỗ cánh bay vút vào bóng đêm, ở đây với vô vàn các khối nhũ đá, cột đá, măng đá nhiều hình thù kỳ bí, với ngai vàng lọng tía quả là một kiệt tác của thiên nhiên.
Ngách phía Tây nam: Ngách động này ăn sâu xuống và hướng ra phía ngoài núi, sau đó lượn hình vòng cung men theo triền núi đá vôi với độ sâu khoảng 48m, rộng trung bình 10 -12m, trần cao thấp không đều nhau có chỗ cao đến 30m, có chỗ thấp hẳn xuống tạo thành các cung bậc. Nền động gồ ghề và ẩm ướt, nền được tạo thành bởi nhiều tảng đá lớn xếp lại với nhau. Dưới ánh đèn vô vàn các nhũ đá, cột đá hiện ra với nhiều hình thù như được bàn tay chạm nhân tạo của những nghệ nhân tài ba tạo thành. Từ trần cao rủ xuống các dòng thác đá uốn lượn mềm mại như những dải lụa mềm, khẽ đung đưa trong gió, những hình ảnh đó hoà vào nhau tạo thành các khối kiến trúc hình thành nên các cột lớn từ dưới vút lên cao xoè ra như chống lấy cả khối trần đồ sộ. Có khối cao, khối thấp, khối đến mười người ôm không xuể, có khối chỉ như chiếc cột nhà sàn, có khối cao đến 20m, có khối chỉ cao 3- 4m. Tạo ra trong vách động này một bức tranh hoàn chỉnh mà trong đó hội tụ đầy đủ cả kiến trúc nghệ thuật tạo hình và hội hoạ.
Lũng Vân
Nằm cách trung tâm thành phố Hòa Bình khoảng 40km, Lũng Vân (Tân Lạc) là một trong bốn cái nôi văn hóa lớn và cổ xưa nhất ở xứ Mường Hòa Bình. Với cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, hùng vỹ cùng nét văn hóa đặc trưng, Lũng Vân đang là điểm đến của không ít người đam mê du lịch phượt. Được coi là “nóc nhà xứ Mường Bi”, bởi đó là vùng đất sinh sống cao nhất của người dân tộc Mường, đồng thời cũng là nơi chứa đựng rất nhiều câu chuyện đã đi vào huyền thoại.
Lũng Vân gồm những ngọn núi cao hùng vĩ điệp trùng thấp thoáng trong mây, với những con đường nhỏ nhưng dốc cao và vô cùng hiểm trở…Chính vì những điều kiện thiên nhiên và địa hình đó, nơi đây đã từng là điểm đến của một số nhóm phượt và off-road muốn trốn tránh sự ồn ào thành thị để tìm cho mình những giây phút trải nghiệm trong một không gian thiên nhiên tĩnh lặng.
Nằm ở độ cao 1200m so với mặt nước biển, nơi đây quanh năm mây mù bao phủ nên còn có tên gọi Thung Mây. Thung lũng được bao bọc bởi núi Trâu, núi Pó, núi Tiên, khí hậu mát mẻ, nhiệt độ trung bình vào khoảng 20 – 23,3ºC. Cái tên Lũng Vân hẳn còn xa lạ với nhiều người. Một phần bởi nó nằm sâu bên trục đường Hòa Bình – Mộc Châu, đường tới Lũng Vân lại vô cùng hiểm trở với những đèo dốc liên tiếp dài 13km. Bởi thế, cũng dễ hiểu khi ít người biết về Lũng Vân.
Theo truyền thuyết được ghi lại trong áng mo “Đẻ đất, đẻ nước” của người Mường thì đã lâu lắm rồi, chẳng ai còn nhớ được, giữa chốn núi non hiểm trở đã xảy ra một cơn đại Hồng thuỷ. Nó bất thần đổ ập xuống trong một đêm mưa gió bão bùng. Dòng nước cuộn xiết đã cuốn trôi hết nhà cửa, trâu bò, con người và cả núi rừng. Giữa cuộc tan tác ấy, có đôi vợ chồng bấu víu được trên chiếc bè. Cứ thế, chiếc bè chìm nổi trong sóng dữ hết ngày này sang này khác cho đến khi vướng vào một cây cổ thụ khổng lồ có tên là Bi, rễ cây ăn xuyên qua “chín sông, mười núi” bền chắc đến nỗi cơn đại Hồng thuỷ kia không thể làm bật gốc. Khi cơn Hồng thuỷ rút đi, đôi vợ chồng nọ cũng không biết quê xứ của mình ở đâu để trở về. Bởi sau cơn Hồng thuỷ, mặt đất như trở lại thời hỗn mang, mọi thứ đều tan tác hoặc bị cuốn trôi. Không biết đi đâu, họ ở lại dựng nhà dưới gốc cây Bi, sinh con đẻ cái, phát rừng làm nương, cày cuốc sườn đồi thành ruộng bậc thang, làm Cọn lấy nước, thuần phục muông thú thành vật nuôi, lập bản, lập mường. Nhớ ơn cây thần cứu mạng, họ đã lấy tên cây đặt tên cho mường. Đó là vùng Mường Bi ngày nay – một mường lớn và trù phú nhất trong 4 mường Bi – Vang – Thàng – Động của xứ Mường Hoà Bình. Cái tên Lũng Vân, có lẽ được bắt nguồn từ điểm đặc trưng của một thung lũng với bốn bề là núi cao dựng, nối nhau trùng điệp quanh năm chờn vờn mây phủ. Xưa, Lũng Vân còn có tên là Mường Chậm. Theo những người dân thì chữ Chậm ở đây không phải là sự nhanh, chậm theo nghĩa thông thường. Nhưng trong tiếng Mường nó cũng chẳng thể hiện ý nghĩa gì. Nguồn gốc xa xưa của địa danh này cũng chẳng mấy ai rõ. Chỉ biết rằng truyền thuyết tạo nên xứ Mường trong mây này là một câu chuyện buồn của một cuộc trốn chạy quan Lang của một gia đình nghèo còn được ghi trong trí nhớ của một lớp người xưa cũ như một câu truyện truyền thuyết đời nối đời.
Tương truyền thì trong xứ Mường Hoà Bình, Mường Chậm là xứ mường trẻ nhất, nằm ở địa thế sâu, xa nhất. Nó là kết quả cuộc trốn chạy của một nhà dân thường. Vì phạm tội với nhà Lang nên phải bồng bế nhau bỏ mường đi tìm đất mới. Thuở ấy, nhà lang xứ Mường Bống ở đất Lạc Sơn cho đắp một con đập dẫn nước về các thửa ruộng bậc thang lẩn khuất giữa các khe nách núi. Từ khi có con đập, lũ trẻ thường rủ nhau tắm và chui luồn như những con rái cá trong cái cống dẫn nước bắc ngang qua chân núi. Một nhà dân thuộc họ Bùi vô tình đan cái ngõ hầu (đó) chặn một đầu bên kia miệng cống. Mải nô đùa, luồn lách 9 đứa trẻ bị giắt vào ngõ hầu và chết trong đó. Nhà lang phạt vạ, bắt nhà họ Bùi đan đủ 9 cái ngõ hầu, mỗi năm nộp lúa, ngô… quy ra vàng bạc đầy 9 cái ngõ hầu để nộp vạ cho mường… Không chịu được sự bất công, sau một mùa lúa mới, trong một đêm tối trời, nhà họ Bùi đã gùi chín gùi lúa mới bồng bế nhau bỏ mường, trốn khỏi nhà lang. Họ đi miết cho tới khi lạc vào một vùng hoang vu cây cối rậm rạp. Nghe tiếng Cuốc kêu, biết là vùng này có nước, họ mới dừng chân ở lại…. Mường Chậm được hình thành như thế. Con Cuốc chỉ đường cho người trốn vạ nhà lang được nhà họ Bùi nhớ ơn, không bao giờ ăn thịt. Cuộc sống bình yên trên vùng đất mới của dòng họ Bùi bắt đầu như vậy. Một năm sau, người vợ của nhà họ Bùi đi xúc cá, được một quả trứng. Bỏ đi đâu bà cũng bắt đúng quả trứng ấy. Lấy làm lạ, bà mang về cho gà ấp, quả trứng nở ra một con rắn. Con rắn hiền lành chẳng bao giờ làm hại ai cả.. Lớn lên, con rắn bò về cái lằn nước nơi trước kia người vợ nhà họ Bùi vớt được quả trứng. Trước khi đi, rắn bảo: “Con trả ơn nuôi dưỡng của bố mẹ bằng cách mở rộng đất cho bố cày”. Một đêm mưa gió, sấm chớp đùng đùng, nước ngập cả mường, kéo đổ cây, cuốn cả nhà… Đúng lúc ấy, con rắn hiện lên bảo với ông lão họ Bùi: “con sẽ đi dập dòng nước dữ cứu mường. Lúc con đi, bố phải nhắm mắt đọc câu thần chú “con tôi làm được” và không được mở mắt nhìn. Nếu không con sẽ chết ngay!”. Nói rồi, con rắn lao vào dòng nước dữ trong đêm giông gió. Người cha nghe theo, nhắm mắt đọc câu thần chú. Nhưng rồi cuối cùng vì sự tò mò, ông mở mắt ra và nhìn thấy một con giao long khổng lồ đang hút từng đụn nước vào bụng, vừa hút, vừa lấy thân mình khoét núi cho nước thoát đi…
Với những tiềm năng sẵn có, Lũng Vân hiện đang là một điểm thu hút khách du lịch. Đến Lũng Vân đẹp nhất vào thời điểm sau tết đến tháng Tư hàng năm, đó là lúc có nhiều mây bao phủ nhất. Mây bắt đầu từ chiều tối và đến sáng sớm hôm sau tan dần, đến giữa trưa thì trời quang hẳn. Đến Lũng Vân, du khách có thể tham quan, nghỉ đêm tại nhà sàn của người Mường, cùng làm những công việc hàng ngày với người dân hay tham gia các sinh hoạt văn hóa cộng đồng… Chợ Lũng Vân nằm ngay trung tâm xã, họp mỗi tuần một lần vào ngày thứ 3, du khách có thể đến đây để tìm hiểu những màu sắc văn hóa của dân tộc Mường.
Từ Lũng Vân các bạn cũng có thể đi tiếp sang huyện vùng cao Bá Thước của tỉnh Thanh Hóa, nơi có khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, một địa điểm du lịch cũng vô cùng hấp dẫn với những bạn yêu các cung đường vùng cao Tây Bắc.
Thác Mu
Cách Hà Nội khoảng 140km, thuộc khu bảo tồn thiên nhiên Ngọc Sơn – Ngổ Luông (Lạc Sơn), thác Mu là một điểm đến thú vị dành cho những người thích khám phá. Đặc biệt, trong những ngày nắng nóng đỉnh điểm, thác Mu đã thu hút rất đông người dân đến đây để tận hưởng không khí mát lành, tắm mát và vui chơi.
Bản Đá Bia
Bản Đá Bia, thuộc xã Tiền Phong, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình. Chỉ cách trung tâm Hòa Bình khoảng 100km, nơi đây là địa điểm lý tưởng cho những du khách muốn tạm xa ồn ào của đô thị, khám phá những điều mới lạ, tìm hiểu về đời sống văn hóa của dân tộc thiểu số nói chung và đồng bào dân tộc Mường nói riêng.
Khu bảo tồn thiên nhiên Phu Canh
Khu bảo tồn thiên nhiên thuộc địa phận 4 xã Tân Pheo – Trung Thành – Đoàn Kết – Đồng Chum, huyện Đà Bắc. Đây là một khu rừng giàu và đa dạng về thảm thực vật, động vật. Rừng Phu Canh không giống như những khu bảo tồn thiên nhiên khác. Ở đây vẫn còn nguyên sự hoang sơ, huyền bí và thâm u của rừng già như nó vốn có.
Chùa Tiên
Chùa Tiên – Mẫu Đầm Đa (hay còn được người dân gọi là Chùa Tiên – Đầm Đa) là một ngôi chùa thuộc địa phận xã Phú Lão, Lạc Thủy. Chùa được Bộ văn hóa – Thông tin Việt Nam cấp bằng di tích lịch sử văn hóa tháng 9 năm 1989. Khu Du lịch Chùa Tiên – Đầm Đa là một quần thể du lịch bao gồm nhiều hang động, đền chùa tuyệt đẹp, nằm bên kia sườn dãy núi Hương Sơn Chùa Hương. Ngoài ra quần thể danh thắng Chùa Tiên là di chỉ khảo cổ học cấp quốc gia.
Lễ hội chính của chùa Tiên được tổ chức vào 3 ngày: 4 – 6 tháng Giêng và kéo dài cho đến hết tháng Tư âm lịch. Mỗi năm lễ hội lại được tổ chức quy mô hơn, đông vui hơn, du khách bốn phương tìm về nhiều hơn. Gọi là lễ hội Chùa Tiên, nhưng đây là lễ hội chung cho cả khu di tích mà địa điểm chính được đặt ở Chùa Tiên.
Đến với lễ hội Chùa Tiên, du khách sẽ được thưởng thức một di sản văn hoá vừa vật thể, vừa phi vật thể. Những chiếc kiệu như từ truyền thuyết đi ra, như từ dã sử xuất hiện, vừa lạ vừa quen, vừa cổ xưa, vừa mới mẻ, vừa bình dị vừa thiêng liêng. Những chiếc kiệu Thành hoàng làng là trung tâm của đám rước, được khiêng trên đôi vai của các nam thanh nữ tú dân tộc Mường. Chiếc kiệu được rước trên những đôi vai của niềm tin, của lòng thành kính và của những ước mong. Kiệu Thành hoàng có thể đi, có thể chạy, có thể bay khi có niềm tin và niền tin vào sự linh thiêng được tăng lên.
Cùng với đám rước, là những nghi thức tế lễ: có dâng rượu dâng hương, có đọc sắc phong của triều vua xưa phong cho các vị Thành hoàng trong khu di tích, có dâng chúc văn cầu mong thần linh ban tặng mưa thuận gió hoà, nhà nhà an khang, xóm làng thịnh vượng… Đó là những nghi thức đã trở thành truyền thống để tôn vinh các vị thần Thành hoàng làng – những người đã vì nước vì dân được tôn thờ.
Chùa Tiên toạ lạc dưới chân núi Tung Sê trên một khu đất khá bằng phẳng có mặt tiền quay về hướng Đông Bắc. Theo truyền thuyết, Chùa Tiên được xây dựng từ rất xa xưa theo lối kiến trúc nhà sàn với nguyên vật liệu là tranh tre nứa lá. Trải qua năm tháng, ngôi chùa đã bị xuống cấp. Năm 1998, bằng nguồn vốn trùng tu tôn tạo di tích của Bộ Văn hoá Thông tin và sự đóng góp của chính quyền và nhân dân trong xã, ngôi chùa đã được trùng tu tôn tạo khang trang như ngày nay. Đến dâng hương tại Chùa Tiên, du khách sẽ có dịp được bày tỏ lòng thành kính lên các đức Phật các ước mong của mình.Phía sau Chùa Tiên ngay trong dãy núi Tung Sê, du khách sẽ được tới thăm danh thắng Động Tiên với nhiều điều kỳ thú. Đây là di tích khảo cổ đã được Bộ Văn hoá Thông tin xếp hạng cấp quốc gia năm 1989.
Bên cạnh giá trị khảo cổ, động Tiên còn là di tích có giá trị thẩm mỹ cao. Đi sâu vào bên trong, ta sẽ bắt gặp không gian đầy huyền thoại. Ngẩng đầu lên ta bắt gặp một vòm trần lô nhô, đông đúc căng chật hàng trăm, hàng ngàn khối nhũ đá rủ xuống. Chỗ thì vàng óng toả ra như một rừng hoa, chỗ thì trắng xoá, bầu thon như những viên ngọc; chỗ thì rực rỡ như một căn phòng với các chùm đèn trang trí. Các khối nhũ đá được chạm chổ tinh tế những hình thù kỳ lạ, bí ẩn, đường nét uyển chuyển, mềm mại và khá cân đối.
Nét đặc biệt ở động Tiên là quần thể các cột đá mọc lên từ nền hang, giữa phòng là một khối nhũ lớn, xung quanh là bạt ngàn các cột nhũ nhỏ như hội quần tiên ở rừng thệ đà đông đúc các vị La Hán, các Bồ Tát, các thanh văn quây quần bên nhau nghe đức Phật Như Lai giảng kinh. Tất cả đều lặng lẽ trang nghiêm, không xô bồ ồn ã. Không gian cũng tĩng mịch u huyền càng tăng thêm vẻ tôn nghiêm. Và du khách càng ngắm, càng ngỡ như được đắm chìm vào tiên cảnh ấy. Và con người như được cảm thấy thanh cao hơn.
Nhà máy in tiền Chi Nê
Nhà máy in tiền đầu tiên của chính quyền cách mạng Việt Nam nằm ở đồn điền Chi Nê (giai đoạn 1946-1947), nay là xã Cố Nghĩa, Lạc Thủy. Nơi đây, những “tờ bạc tài chính cụ Hồ” đầu tiên mang sứ mệnh lịch sử lớn lao đã ra đời.
Du lịch Mai Châu
Đèo Thung Khe
Nằm giữa Tân Lạc và Mai Châu (Hòa Bình) trên đường quốc lộ 6, đèo Thung Khe hay đèo Đá Trắng buổi sớm là bầu trời trong trẻo, buổi trưa là nắng gắt trời xanh, buổi chiều dìu dịu với ánh nắng chiều và đêm là sương mù giăng khắp lối. Đã có rất nhiều người đi qua đèo Thung Khe mà không nhớ tên của con đèo trên mảnh đất Hòa Bình này. Đèo không hùng vĩ như Ô Quy Hồ đất Lào Cai, không cheo leo như Mã Pì Lèng của đất Hà Giang nhưng lại chứa đựng vô vàn hiểm nguy bất ngờ đối với bất kỳ tay lái nào.
Cột cờ Mai Châu
Qua khỏi đèo Thung Khe, trước khi xuống đến ngã 3 Tòng Đậu để đi vào trung tâm Mai Châu, có một điểm mà các bạn không thể bỏ lỡ đó là cột cờ Mai Châu. Trước kia, khu vực này vốn chỉ là một khoảng đất trống mà từ đó có thể ngắm toàn cảnh Mai Châu, sau này được đổ bê tông và dựng lên ở đó một chiếc cột cờ, như một biểu tượng nho nhỏ để các bạn ghi lại những khoảnh khắc đẹp khi đến với Mai Châu.
Bản Lác
Bản Lác ngày nay đã là một điểm du lịch cộng đồng rất quen thuộc trong lòng du khách gần xa. Không phải là một nơi sầm uất, tấp nập, không hào hoa tráng lệ, không cao sơn mỹ vị mà tất cả đều dân dã, tự nhiên, gần gũi thân thiện khiến du khách một lần tới đây sẽ nhớ mãi không quên.Bản Lác – Mai Châu: nơi in đậm bản sắc văn hóa người Thái trắng 5 dòng họ người dân tộc Thái sinh sống ở bản Lác là Hà, Lò, Vì, Mác, Lộc. Tới nay bản đã tồn tại được 700 năm. Trước đây dân bản chỉ sống dựa và nghề trồng lúa nương và dệt thổ cẩm, sau này vẻ đẹp tiềm ẩn của bản Lác đã dần được du khách khám phá. Và cũng từ đó mọi người trong bản đều làm về du lịch và cái tên bản Lác là một trong những vùng trọng điểm về du lịch ở Mai Châu.
Bản Poom Coọng
Pom Coọng nghĩa là bản của những quả đồi nằm trên cái trống lớn, ngụ ý chỉ đồng ruộng – một cái tên giàu tượng hình và nhiều ý nghĩa. Pom Coọng đã được biết đến là một làng văn hóa, làng du lịch, điểm đến hấp dẫn với du khách thập phương với gần 70 hộ và hơn 300 nhân khẩu.
Bản Văn
Cách trung tâm thị trấn Mai Châu chỉ khoảng 1km, Bản Văn nằm dưới chân núi Pù Văn là nơi sinh sống của đồng bào dân tộc Thái, người Thái ở đây chủ yếu sống bằng nghề trồng lúa nước, chăn nuôi, các nghề truyền thống như dệt vải, đan lát…
Không quá xa thị trấn sầm uất nhưng bản Văn vẫn còn khá nhiều nét hoang sơ, mộc mạc, từ phong cảnh đến lối sống bình dị của người dân Thái. Nếu đến bản Văn vào dịp đầu năm mới, các bạn có thể được tham gia vào các trò chơi dân gian đang được địa phương khôi phục lại như “tó mặc lẻ”, kéo co, “keng loong”, ném còn, bắn nỏ …Những trò chơi này góp phần làm phong phú đời sống sinh hoạt người dân trong bản và cũng trở thành một sản phẩm du lịch để thu hút du khách tới bản.
Bản Bước
Cách trung tâm huyện khoảng 30km về phía Tây Nam, bản Bước xã Xăm Khòe nằm trọn trên một khu đồi được bao phủ bởi rừng cọ xanh. Nơi đây vẫn giữ được nét nguyên sơ, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, cũng vì lẽ đó mà nơi đây được chọn để xây dựng dự án “Bản người Thái gắn với du lịch”. Trước đây bản của người dân xóm Bước định cư ven bờ suối, năm 2007, xóm Bước được quy hoạch để xây dựng thành khu du lịch sinh thái, cả xóm đã chuyển lên địa điểm sinh sống mới.
Đồng bào người Thái ở xóm Bước được thừa hưởng một di sản văn hóa vật thể và văn hóa tinh thần vô cùng phong phú. Đó là tập quán canh tác lúa nước, làm nương, những nếp nhà sàn truyền thống làm bằng sàn gỗ, lợp mái gianh, những công cụ lao động sản xuất rất đặc trưng như cọn nước, gùi, thố… Dự án du lịch bản Bước đang dần đánh thức tiềm năng vốn có ở nơi đây. Để phục vụ du lịch, bản đã thành lập được một đội văn nghệ gồm 12 người có thể múa xòe, hát dân ca Thái và biểu diễn các tiết mục khác. Khi trong bản có khách du lịch, các đội văn nghệ sẽ đến biểu diễn phục vụ.
Nhà trưng bày hiện vật cổ vật văn hóa Thái – Mai Châu
Lên Mai Châu hỏi anh Kiều Văn Kiên, quê xã Đồng Trúc (Thạch Thất – Hà Nội), chưa chắc đã nhiều người biết. Nhưng nếu hỏi anh Kiên, người sở hữu “kho báu” Thái thì có khối người chỉ đến tận nhà.
Suốt 10 năm nay, chỉ cần nghe nơi nào, nhà nào có đồ vật cũ của người Thái là anh lập tức lên đường. Hình như anh sợ “kẻ thù thời gian” sẽ làm hư hỏng, thất lạc đi những hiện vật kia. Không chỉ ở vùng Mai Châu, anh Kiên còn lặn lội đến khắp các tỉnh như Sơn La, Thanh Hóa, Nghệ An thậm chí còn sang cả nước bạn Lào hoặc bất cứ vùng nào có người Thái cư ngụ để tìm hiểu, sưu tập và truyền bá những giá trị văn hóa cổ để người dân cùng yêu mến và giữ gìn cho thế hệ sau.
Tháng 6-2012, anh xin phép chính quyền địa phương dựng điểm tham quan văn hóa Thái Mai Châu tại bản Mỏ, xã Chiềng Châu để trưng bày, giới thiệu cho du khách về thời đã xa của một dân tộc có nền văn hóa đậm đà bản sắc.
Hang Mỏ Luông
Cách không xa trung tâm thị trấn Mai Châu, nằm sát quốc lộ 15 nhìn về phí bản Lác, Pom Coọng là hang Mỏ Luông: Tên gọi cũ là hang Bó Luông, tiếng Thái Bó Luông có nghĩa là mạch nước lớn. Đó là mạch nước bắt nguồn từ trong lòng dãy núi Pù Khà. Mạch nước này chảy ra cánh đồng phía Tây, nhân dân địa phương đã đào đắp thành hồ chứa nước và đặt tên là hồ Mỏ Luông.
Hang Chiều
Để lên tới Hang Chiều du khách phải trải qua 1200 bậc đá, bên cạnh cửa hang có cây Xà Pùng cổ thụ, đứng sừng sững uy nghi nơi cửa hang, nhưng lại khiêm nhường, đứng sang 1 bên để che chắn cho cửa hang và thuận tiện cho đường đi xuống lòng hang. Hang Chiều nằm ở hướng Tây Nam của thị trấn Mai Châu. Cửa hang rộng khoảng 10 – 15m, dài ngược lên đỉnh núi khoảng hơn 30m, cách khu dân cư khoảng 350m. Càng lên cao nhìn xuống, thị trấn Mai Châu trù phú và thơ mộng càng hiện ra rõ nét.
Làng bích họa Hải Sơn, Mai Châu
Trên những bức tường trên con đường dài hơn 800m ở thôn Hải Sơn, xã Mai Hịch (Mai Châu) đã được người dân trang trí, biến những bức tường trở thành một con đường bích họa sinh động, tràn ngập màu sắc, thấm đẫm bản sắc văn hóa và phong cảnh đặc trưng của địa phương.
Thác Gò Lào
Gò Lào là tên một con thác nằm ở khu vực xã Phúc Sạn, cách trung tâm Thị trấn Mai Châu khoảng 15km. Từ trên đường chính, bạn sẽ phải gửi xe và đi bộ vượt qua khoảng 5 nhịp cầu thang (thực chất là con đường đất được người dân tạo thành bậc để đi lại cho dễ) là có thể xuống được thác. Thác Gò Lào gồm 2 thác nước nhỏ, chảy từ độ cao khoảng 15m xuống. Khu vực dưới chân thác có một bãi đất trống bằng phẳng có thể phù hợp cho việc tổ chức một bữa picnic ngoài trời.
Ba Khan
Ba Khan là một xã nhỏ của Mai Châu nằm ven bờ hồ thủy điện Hòa Bình, từ đèo Thung Khe thả tầm nhìn về phía bình nguyên sau lưng đèo, đó chính là Ba Khan. Con đường này bắt đầu từ phía dưới chân đèo Thung Khe, chạy dọc qua hết xã Ba Khan rồi bắt đầu men theo lòng hồ Hòa Bình.
Các món ăn ngon tại Hòa Bình
Nói đến đặc trưng ẩm thực cũng như lao động sản xuất của người Mường là nói đến một câu rất đặc trưng: “Cơm đồ, nhà gác, nước vác, lợn thui, ngày lui, tháng tới”, vì thế đối với cư dân Mường, với nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, canh tác lúa nước, cơm nếp đồ là thứ không thể thiếu, là món ẩm thực mang ý nghĩa lớn để cảm ơn trời đất cho mùa màng bội thu.
Cá nướng đồ
Cá được đánh bắt từ sông Đà, mang về đem nướng trên than hồng. Trước khi nướng, cá được xiên các que tre nhỏ từ miệng xuống tận đuôi, rồi dùng kẹp tre xanh kẹp vào để cho cá khỏi rơi, gãy. Cá nướng được đem rắc muối gói lá chuối, đồ lên rồi mới ăn. Sự kết hợp các hương vị của tre tươi, lá chuối, vị đậm đà của muối hòa quyện vào nhau làm cho món ăn thực sự hấp dẫn. Du khách sẽ khó mà quên được hương vị ẩm thực Tây Bắc này khi thưởng thức cùng với cơm lam.
Thịt lợn mán Hòa Bình
Lợn là loại được nuôi thả trên đồi núi, quanh năm chỉ biết ăn ngô, khoai, cây cỏ nên cho thịt săn chắc, ít mỡ, có vị thơm ngọt tự nhiên. Sau khi chế biến đầy đủ các món ăn, thịt lợn mán sẽ được bày biện ra mâm cỗ đã được lót sẵn lá chuối. Lá chuối ở đây phải là lá chuối rừng, non mềm, thơm mùi đặc trưng núi rừng, hòa quyện với màu sắc hấp dẫn của mâm cỗ. Trong mâm cỗ lá, thức ăn cũng được bày biện theo hình tròn. Lòng và tim gan lợn luộc chín được xếp đầu tiên, tiếp theo là thịt lợn mán luộc và nướng. Phía trên cùng là những miếng chả được nướng trên than hồng thơm phức. Xen lẫn các món thịt, không thể kể thiếu những thức rau rừng tươi mơn mởn.
Gà chạy bộ Thung Nai
Với địa hình là đồi núi cao, gà được nuôi ở Thung Nai là gà chạy bộ chính hiệu. Thịt sẽ dai và thơm hơn so với gà ở dưới xuôi nhiều. Ngoài gà trong bữa ăn chính, bạn có thể đặt nhà nghỉ chuẩn bị thêm 1 vài con (tùy số lượng người) để nướng hoặc nấu cháo vào buổi tối.
Thịt lợn muối chua
Thịt lợn nuôi thả ướp với men của lá rừng cùng với gạo rang giã nhỏ thời gian khoảng 60 phút. Sau đó lấy lá chuối rừng hơ lên trên lửa, lau sạch rồi lót vào đáy bồ làm bằng tre, nứa, trước khi đưa thịt vào bồ. Phần dưới của bồ (trên của lá chuối) được rải một lớp gạo rang nhỏ trộn với muối rang sau đó xếp thịt lên, cứ một lần xếp thịt lại rải một lần gạo rang với muối. Sau đó đậy kín nắp bồ bằng lá chuối và để bồ thịt muối ở quang bếp củi hoặc trên gác bếp đun củi. . Khi khách du lịch thưởng thức món ăn thịt lợn chua vẫn cảm nhận được màu sắc của thịt, ngậy của bì, độ chua của men rừng, độ mặn vừa phải của muối, độ thơm của gạo. Món ăn này thường được ăn với các loại lá rừng.
Cơm lam
Khi về Hòa Bình, về với miền phong thuỷ hữu tình này thực khách có thể được biết tới một lối sống độc đáo của người Mường và cũng được hoà mình vào nền văn hoá ẩm thực vô cùng phong phú của con người nơi đây. Những sản vật của núi rừng luôn làm hài lòng những vị khách khó tính nhất, những món ăn rất dân dã thôn quê nhưng để lại những ấn tượng rất khó quên cho những ai đã từng thưởng thức như món gà đồi nướng, cá sông, măng chua, rượu cần… nhưng thế vẫn chưa đủ, khi về Hoà Bình thì phải được nếm hương vị của cơm lam thì mới có cảm nhận được hương vị của miền sơn cước này.
Không biết món cơm độc đáo này ra đời từ bao giờ, nhưng chỉ biết rằng người dân miền núi thường phải đi rừng rất vất vả, nhọc nhằn có khi đi từ lúc sáng sớm tinh mơ cho tới lúc tối mịt hoặc thậm chí phải ngủ lại trong rừng. Nên họ mang theo một chút gạo để khi đói sẽ chặt lấy ống tre, ống nứa bên đường, bỏ chút gạo và chút nước suối để nướng những ống cơm ăn qua bữa, từ những thói quen từ ngàn xưa để lại, một thói quen rất bình dân, dễ làm thế mà không ngờ nay đã được tôn lên thành một món ăn đặc sản của núi rừng – món cơm lam. Món cơm lam có rất ở nhiều nơi từ người Tày, nguời Thái, người Nùng, người Mường… đều có loại cơm này. Tuy nhiên, Hoà Bình là nổi tiếng hơn cả vì nơi đây có loại gạo nương thơm lại dẻo nổi tiếng
Người Thái ở Mai Châu làm bằng cách bỏ gạo nếp vào ống tre đã chọn lọc và nút lại bằng lá chuối khô. Đốt một đống lửa to, chờ lửa cháy đượm, bắt đầu xếp các ống cơm lên. Trong lúc nướng phải xoay ống tre thật đều. Khi thưởng thức, vị dẻo của gạo nếp, hòa quyện vào mùi thơm của ống tre và lá chuối tạo nên một hương vị đặc biệt. Hiện nay, mỗi buổi sáng sớm, tại các bản, làng đang phát triển mạnh văn hóa du lịch của Mai Châu như bản Lác, bản Văn, Pom Coọng… đều có hình ảnh những người phụ nữ Thái nướng cơm lam, bán cho du khách gần xa.
Xôi các màu
Người ta tạo ra màu xôi từ các thứ cây thân cỏ, sau đó lần lượt cho gạo màu đỏ xuống trước, sau là màu xanh, vàng, tím, trắng cho lên trên cùng. Khi xôi chín, dỡ ra rồi trộn với nhau hoặc để riêng từng màu thành loại xôi nhiều màu với hương vị khác nhau trông rất đẹp mắt. Đây là một món ăn dân tộc rất được khách du lịch ưa chuộng.
Rau rừng thập cẩm đồ
Món rau đồ quen thuộc gồm cả rau rừng, lá thuốc, các loại lá thập cẩm trong vườn nhà (hoa chuối, lá đu đủ, rau beo, rau tầm bóp, cà quẹng, rau đốm…) sau khi đồ lên khoảng 30-40 phút. Lúc ăn, chấm nước lòng cá tạo nên sự đan xen trong vị giác(chút đắng, cay, chua, chát, ngọt, bùi…)
Măng đắng
Măng ngon là thứ mầm cây thuộc họ tre, trúc, mai, vầu, sặt, nứa mới nhú khoảng 1-2 đốt ngón tay trở xuống, phần thân còn lại ngập trong đất. Khi bóc bẹ ra, thân măng trắng muốt, nuột nà.
Muốn có món măng đắng ngon phải chọn những mầm măng sặt mới nhú lấy củi nướng cho đến khi măng cháy xém, quắt lại bóc dần từng bẹ chấm vào gói chẩm cheo gồm muối, ớt, lá gừng, mắc khén, lá tỏi và củ tỏi giã nhỏ. Khi ăn, ta sẽ cảm nhận được vị đắng ngọt của măng, vị mặn của muối, vị cay nồng của ớt, vị cay ấm của lá gừng, vị cay tê của mắc khén, vị cay rát của tỏi cùng hương vị đặc trưng của nước măng chua và cây măng nướng.
Măng chua nấu thịt gà
Gà nuôi thả, có trọng lượng khoảng trên 1 kg được làm sạch, bỏ riêng nội tạng. Sau đó, chặt thịt gà ra nhiều miếng nhỏ đem ướp với măng chua (măng giang, măng bương càng muối lâu càng tốt) cùng với gia vị bóp ướp để từ 20-30 phút cho ngấm hương vị của măng cùng gia vị vào miếng thịt. Sau đó, cho vào nồi vần quanh bếp củi than khoảng 1-2 giờ. Khi thịt gà và măng đã chín nhừ, rắc thêm một chút hạt dổi nướng giã nhỏ.
Chả cuốn lá bưởi
Thịt lợn ba chỉ thái con chì, ướp một chút nước mắm, hành. Lá bưởi cắt làm đôi, cuốn mỗi miếng thịt một nửa lá to hoặc một lá nhỏ, kẹp vào kẹp tre nướng trên than hồng. Mỡ lợn gieo xuống than hồng làm dậy lên ngọn lửa mỏng mơn man kẹp chả, lá bưởi ngả màu hơi tím se lại là được. Khi khách du lịch cắn miếng chả lá bưởi thơm giòn, gẫy mảnh lẫn vào thịt săn vàng làm tiêu tan sự ngấy, chỉ còn lại mùi thơm, khi nuốt miếng chả rồi còn lại cảm giác tê tê đầu lưỡi.
Thịt trâu nấu lá lồm
Thịt trâu đem thui cho thơm, cạo sạch rồi bung cho mềm, đem bóc thái miếng nhỏ, hầm trong nồi đất chín kỹ rồi giã lá lồm ( một loại lá chua), nêm một ít tấm gạo bỏ vào nồi hầm với thịt trâu. Khi tấm chín nở và hơi sánh thì cũng là lúc thịt trâu nhừ và ngấm vị chua của lá lồm. Đây là món ăn dân tộc phổ biến của người Mường Hoà Bình.
Chả rau đáu
Do nhu cầu muốn có một món ăn vừa có vị thanh mát, vừa bổ dưỡng cho sức khỏe, người Mường đã sáng tạo ra món chả rau đáu. Sở dĩ nó trở thành món ăn quý là do lá rau đáu là một vị thuốc bổ rất khó trồng, mà chỉ mọc tự nhiên ở các khe suối vào thời tiết lạnh và ẩm ướt như mùa Xuân hay mùa Đông.
Điểm đặc biệt của chả rau đáu so với những món ăn khác đó là sự cẩn trọng từ khâu tìm kiếm nguyên liệu đến khâu chế biến. Để có được những lá rau đáu xanh tươi và đúng hương vị, người làm phải mất cả ngày trời tìm kiếm bên những khe suối trên rừng. Chính vì thế mà khách đến chơi nhà người Mường muốn thưởng thức món ăn này thì phải báo trước vài ngày để chủ nhà chuẩn bị.
Canh loóng
Là món canh được nấu từ nước luộc thịt với nõn cây chuối rừng. Cây chuối rừng đốn về bóc vỏ ngoài lấy nõn thái mỏng nhỏ bóp với muối để xả chất chát sau đó cho vào nước luộc thịt đun trên bếp củi khoảng 50 – 60 phút. Rắc vào canh hạt dổi nướng giã nhỏ và lá lốt rừng thái nhuyễn trước khi ăn.
Rượu cần
Rượu cần là loại rượu không thể thiếu trong gia đình người Mường khi tiếp khách, vui chơi, uống trong đám cưới, mừng nhà mới, thờ cúng, lễ tạ…Rượu cần được làm bằng cách lấy một nắm lá rừng nghiền nhỏ, rồi trộn với tinh bột để tạo men, sau đó cho vào vò, phủ một lớp trấu để ủ. Khi uống, khách chỉ cần đổ nước đun sôi để nguội hoặc nước khoáng đóng chai vào đầy bình. Tục uống rượu cần thể hiện cách uống theo nhóm người, đông và vui. Trong tiệc rượu, mọi người ngồi quây tròn bên nhau cùng thưởng thức cái êm nồng, dịu ngọt, ngây ngất của rượu cần cùng với tiếng chiêng tràn ngập không khí lễ hội.
Bánh uôi
Bánh đoàn kết, bánh tình yêu, hay bánh uôi, là tên gọi cho một món ăn đặc trưng của người Mường ở Hòa Bình. Cứ vào các dịp lễ tết hay có một sự kiện quan trọng, thì trên mâm cúng của người Mường đều có loại bánh này. Ngày nay, bánh uôi thường được làm vào các dịp lễ tết. Đặc biệt là trong tang ma của người Mường không thể thiếu được bánh này. Trong các dịp lễ tết hay những ngày lễ đại đoàn kết, người Mường cũng làm bánh uôi. Trong dịp Tết nguyên đán, ngoài việc để thờ cúng tổ tiên, người Mường còn dành bánh uôi chia cho gia súc hay nông cụ sản xuất.
Đặc sản Hòa Bình mua về làm quà
Quất hồng bì Kỳ Sơn
Tháng 7 là thời điểm quất hồng bì hoặc nhâm vòng) vào vụ thu hoạch. Hàng trăm điểm bán hồng bì dọc tuyến quốc lộ 6 đoạn từ xã Dân Hòa qua Dân Hạ đến thị trấn Kỳ Sơn (Kỳ Sơn) tấp nập người mua. Với nguồn cung có hạn, gần như chỉ những ai ghé qua vùng đất Dân Hòa đúng thời điểm này mới có cơ hội thưởng thức những chùm hồng bì dày cùi mà ngọt lịm mang hương rất riêng này.
Cam Cao Phong
Các giống cam trồng tại huyện Cao Phong đều có nguồn gốc từ nơi khác. Tuy nhiên, khi đưa về trồng lại đây do phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng khí hậu nên đã trở thành một trong những loại đặc sản phổ biến được mua về làm quà nhiều nhất khi du lịch Hòa Bình.
Mía tím Hòa Bình
Giống cây có màu tím thẫm, thân bóng mịn, lóng dài, vị ngọt thơm. Đây là một trong những món quà quê bình dị mà nhiều người tới Hòa Bình chọn mua. Cây mía Hòa Bình có màu tím thẫm, thân bóng mịn, lóng dài, trong đó, nổi tiếng nhất là mía Phong Phú (Tân Lạc). Cây to, cao tới gần 2m, ít mắt. Mía mềm, ngọt mà không gắt, mùi thơm đặc trưng.
Bưởi đỏ Tân Lạc
Đây là giống bưởi với quả tròn, vỏ màu vàng, khi chín chuyển màu vàng, phớt hồng; Phần cùi khi chín có màu hồng đỏ, khối lượng trung bình từ 800 – 1000g, múi và vách múi dễ tách rời nhau. Múi bưởi đỏ hồng, mọng nước, ăn giòn, ngọt không he đắng.
Mật ong Lạc Sơn
Ong được nuôi ở xã vùng cao Tự Do (Lạc Sơn). Mật ong ở vùng này nguyên chất, sánh quyện, dậy mùi thơm của hương núi, hoa rừng.
Chè Shan Tuyết Pà Cò
Ở độ cao trên 1000 mét so với mực nước biển, quanh năm sương mù, vùng núi Pà Cò có các cây chè tuyết cổ thụ hàng trăm năm tuổi mọc rải rác khắp 9 bản của xã. Những gốc chè ở đất Pà Cò này ngày trước là của người Thái Bao La nuôi dưỡng, đến khi họ không ở nữa mới truyền lại cho người Mông giữ.
Một số lịch trình du lịch Hòa Bình
Phượt Thung Nai 2 ngày
Ngày 1 : Hà Nội – Thác Thăng Thiên (Kỳ Sơn) – Hòa Bình – Thung Nai
- 8h00 : Xuất phát tại Hà Nội
- 9h30 : Lên tới Thác Thăng Thiên, mua vé tham quan , trưa nghỉ ngơi ăn uống ngay trên đường
- 14h00 : Xuất phát từ thác Thăng Thiên đi Thung Nai
- Tối nghỉ ngơi thưởng thức ẩm thực Thung Nai, đốt lửa trại và ngắm trăng lòng hồ sông Đà
Ngày 2 : Thung Nai – Du lịch lòng hồ – Hà Nội
- 8h00 : Thức dậy thuê thuyền đi thăm một số địa điểm tham quan như Động Thác Bờ, đền Bà Chúa Thác Bờ, đảo Dừa, thưởng ngoạn cảnh đẹp của lòng hồ Thung Nai
- 11h30 : Quay lại nhà nghỉ ăn trưa, nghỉ ngơi
- 14h00-15h00 : Bơi tự do trên lòng hồ
- 15h00 : Xuất phát về Hà Nội
Hà Nội – Mai Châu – Kim Bôi
Ngày 1 : Hà Nội – Hòa Bình – Mai Châu (140km)
- 8h00 – 10h00 : Xuất phát từ Hà Nội
- 10h00 : Tới Thành phố Hòa Bình, ghé thăm Bảo tàng văn hóa Mường, thăm nhà máy thủy điện Hòa Bình. Nghỉ ngơi ăn trưa tại Tp Hòa Bình
- 12h30 – 16h00 : Hòa Bình – Mai Châu trên đường đi có thể dừng chân tại đèo Thung Khe ăn ngô nướng, chụp ảnh. Lên đến điểm dừng chân ngắm thị trấn Mai Châu có thể dừng lại chụp ảnh toàn cảnh thung lũng Mai Châu từ trên cao
- Tối ngủ nhà sàn Mai Châu, thưởng thức ẩm thực Mai Châu. Có thể tổ chức các hoạt động tập thể, xem múa và đốt lửa trại
Ngày 2 : Mai Châu – Cao Phong – Kim Bôi
- 8h00 : Khởi hành theo hướng về Tp Hòa Bình, đến gần dốc Cun thì rẽ vào khu du lịch Kim Bôi
- Ăn uống nghỉ ngơi và tối giao lưu tại khu du lịch Kim Bôi
Ngày 3 : Kim Bôi – Bãi Chạo – Hà Nội
8h00 : Khởi hành từ Kim Bôi đi theo đường về Lương Sơn, trên đường về ghé qua một vài điểm du lịch của Lương Sơn như Động Đá Bạc, Suối Ngọc Vua Bà
Mai Châu – Mộc Châu – Ba Khan
Ngày 1 : Hà Nội – Hòa Bình – Mai Châu (140km)
- 7h00 : Xuất phát tại Hà Nội, đi theo hướng quốc lộ 6 hướng đi Hòa Bình
- 10h00 : Nghỉ ngơi chơi bời, chụp ảnh tại đèo Thung Khe
- Trưa lên tới Mai Châu, thuê nhà sàn và đặt ăn trưa. Sau khi nghỉ ngơi đến chiều đi chơi một số địa điểm quanh bản, đi dạo quanh bản.
- Tối ngủ Mai Châu
Ngày 2: Mai Châu – Mộc Châu
- Ắn sáng xong khoảng 7-8h xuất phát đi Mộc Châu, quãng đường còn lại chỉ khoảng 70km
- Trên đường về trung tâm Mộc Châu ghé vào Thông Cuông, Pa Phách
- Trưa ăn trưa tại Mộc Châu, nhận phòng cất đồ rồi tiếp tục khám phá Mộc Châu
- Chiều đi Rừng thông bản Áng, Đồi chè Trái Tim, Thung lũng mận Nà Ka
- Tối ngủ Mộc Châu
Ngày 3 : Mộc Châu – Hà Nội (190km)
- 7h00 : Ăn sáng
- 7h30 : Di chuyển đi tham quan nốt một số điểm chưa đi được
- 12h00 : Từ Mộc Châu quay ngược lại Hà Nội, dừng ăn ở một số quán ăn nổi tiếng trên Quốc lộ 6. Khi về đến gần Mai Châu, rẽ theo đường đi Ba Khan để tranh thủ khám phá nơi này.
Tìm trên Google:
- kinh nghiệm du lịch Hòa Bình 2021
- du lịch Hòa Bình tháng 8
- tháng 8 Hòa Bình có gì đẹp
- review Hòa Bình
- hướng dẫn đi Hòa Bình tự túc
- ăn gì ở Hòa Bình
- phượt Hòa Bình bằng xe máy
- Hòa Bình ở đâu
- đường đi tới Hòa Bình
- chơi gì ở Hòa Bình
- đi Hòa Bình mùa nào đẹp
- địa điểm chụp ảnh đẹp Hòa Bình
- homestay giá rẻ Hòa Bình