Phân Tích Bức Tranh Tứ Bình Việt Bắc Của Nhà Thơ Tố Hữu
Việt Bắc là bài thơ nổi tiếng của Tố Hữu với nội dung thể hiện tình quân dân gắn bó cùng kỉ niệm đẹp khi gắn bó trong cuộc chiến. Bài thơ còn nổi tiếng với hình ảnh bức tranh tứ bình tươi đẹp. Bài viết sau đây lessonopoly sẽ hướng dẫn bạn cách phân tích bức tranh tứ bình Việt Bắc và những ý nghĩa của đoạn trích nhé!

Phân tích bức tranh tứ bình trong Việt Bắc của Tố Hữu
Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn nhất và tiêu biểu nhất của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Ông là một người chiến sĩ với tư tưởng cộng sản, một nhà thơ mang tư tưởng cách mạng. Vì thế, Tố Hữu được xem là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng. Nhắc đến Tố Hữu là nói đến một hồn thơ trữ tình – chính trị, rất sâu sắc và đậm đà bản sắc dân tộc. Suốt cuộc đời mình, nhà thơ đã viết về lý tưởng lớn, lẽ sống lớn, niềm vui lớn, tình cảm lớn của người chí sĩ.
Tham khảo video dưới đây để hiểu hơn về bức tranh tứ bình Việt Bắc nhé!
Đôi nét về nhà thơ Tố Hữu và khái quát chung bài thơ Việt Bắc
Nhà thơ Tố Hữu được yêu mến bởi chất thơ rất riêng đầy sức sáng tạo. Với 6 tập thơ tiêu biểu như Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa, Một tiếng đờn đều gắn liền với những chặng đường lớn của cách mạng Việt Nam. Có lẽ thế mà thơ ông được ví như cuốn biên niên sử bằng thơ của cách mạng dân tộc. Ông đã hoàn chỉnh phong cách thơ của riêng mình, một cuộc đời thơ của mình mà không thể lẫn với bất kỳ ai.
Trước khi phân tích bức tranh tứ bình trong Việt Bắc, ta nhận thấy đây là những áng thơ trong tập thơ cùng tên của Tố Hữu viết về thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Bài thơ Việt Bắc được xem là đỉnh cao của tác giả. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ là nhân sự kiện chiến dịch Điện Biên phủ thắng lợi, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu từ Việt Bắc về thủ đô, Tố Hữu đã viết Việt Bắc.
Tác phẩm là một bức tranh trữ tình mà hoành tráng, bao quát cả một diện lớn về thời gian suốt 15 năm, với một không gian rộng lớn là toàn bộ Việt Bắc. Phân tích bức tranh tứ bình trong Việt Bắc, ta sẽ thấy đây là đoạn đặc sắc và mang giá trị nội dung cũng như nghệ thuật lớn lao.
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
Đây là một trong những đoạn thơ đặc sắc nhất trong tác phẩm. Phân tích bức tranh tứ bình trong Việt Bắc qua những áng thơ này, ta sẽ thấy phần nào vẻ đẹp của tác phẩm. Chỉ với 10 câu thơ nhưng cũng đủ tập trung nói đến một chủ đề và đạt đến sự toàn bích.
Đoạn thơ này được chia làm hai phần. Phần đầu gồm hai câu, nó như lời đưa đẩy trong các cuộc hát giao duyên. Trong đó, người con trai (người về xuôi) vừa ướm hỏi lòng người ở lại, vừa khẳng định những tình cảm trong lòng mình. Phần sau sẽ bao gồm 8 câu chia thành 4 cặp lục bát. Điểm đặc sắc hơn cả chính là cứ câu lục tả hoa thì câu bát tả người. Đoạn thơ như một bức tranh tứ bình diễn tả hoa và người Việt Bắc trong bốn mùa bằng những nét đặc trưng nhất của nơi đây. Cảnh sắc thiên nhiên cũng như con người Việt Bắc được kết tinh một cách cô đúc và hàm súc một cách đặc biệt trong đoạn thơ này.
Việt Bắc là bài thơ được viết theo hình thức đối đáp của dân gian. Hai câu thơ đầu, về chức năng đối đáp, hai câu thơ đưa đẩy để nối liền các mảng đề tài trong một cuộc hát. Đó là người con trai ướm hỏi người con gái.
“Ta về mình có nhớ ta”
Lời hỏi mang giọng tình tứ với cách xưng hô ta mình – mình ta. Quan trọng hơn cả và tinh tế hơn cả chính là sự cao nhã trong tình cảm. Ta về chẳng biết mình có nhớ ta không, nhưng ngay cả khi mình không nhớ ta thì ta vẫn cứ nhớ mình – lời người về xuôi gửi gắm với người ở lại. “Ta” và “mình” là cách xưng hô thân tình thể hiện tình quân dân, nhưng với ngôn ngữ mộc mạc, đã thể hiện sự gắn bó như người thân trong một gia đình, như những người bạn tri kỷ lâu năm. Nay phải cách xa biết bao tâm sự, bao nhiêu lưu luyến không nỡ xa rời, tất cả sẽ kết thành nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy mới duyên dáng và tế nhị biết bao:
“Ta về ta nhớ những hoa cùng người”.
Như vậy là người ra đi khẳng định tình cảm của mình bằng nỗi nhớ, chính là nỗi nhớ về những gì đẹp nhất của Việt Bắc. Đó là hoa và người. Trong nỗi nhớ của người đi, hai hình ảnh này là đồng hiện, soi chiếu vào nhau. Hoa là thứ đẹp nhất của thiên nhiên, còn người ta lại là “hoa của đất”. Vì vậy, cứ nhớ đến người thì hiện hóng hoa và ngược lại, hễ nhớ về hoa thì hiển hiện hình người bởi hoa và người đâu có thể tách rời.

Có thể thấy, tranh tứ bình là một trong những loại hình rất phổ biến trong nghệ thuật thơ văn trung đại. Nó thường là một bộ tranh gồm bốn bức mô tả bốn mặt của một đối tượng nào đấy. Vì vậy, tự nó đã có ý nghĩa hoàn chỉnh. Ta đã từng gặp những bộ tranh tứ bình như tùng – cúc – trúc – mai, xuân – hạ – thu – đông, ngự – tiều – canh – mục, long – ly – quy – phượng… Trong thơ ca, ta cũng từng bắt gặp rất nhiều như là cảnh “Trông bốn bề” trong Chinh phụ ngâm, đoạn “buồn trông” khi Kiều ở lầu ngưng Bích, đoạn thơ mô tả thời oanh liệt của con hổ trong Nhớ rừng của Thế Lữ.
Khi phân tích bức tranh tứ bình trong Việt Bắc, ta thấy tác giả đã miêu tả được một cách toàn diện cũng như thâu tóm được những gì là đặc trưng nhất. Nhà thơ Tố Hữu sử dụng lối vẽ tranh tứ bình rất nhuần nhuyễn trong nhiều bài thơ, đoạn thơ này được xem là bộ tranh tứ bình tứ quý về hoa và người trong 4 mùa của Việt Bắc.
Phân tích bức tranh tứ bình trong Việt Bắc qua hình ảnh mùa đông
Mở đầu với một hình ảnh mang tính khái quát, trong đó Việt Bắc hiện lên như một miền quê thật đẹp xiết bao:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao cài thắt lưng”
Gam màu cơ bản của bức tranh chính là màu xanh. Đó là một màu xanh mênh mang mà trầm tĩnh của rừng già. Nó gợi lên một miền quê êm đềm và tĩnh lặng. Thế nhưng trên cái nền xanh ấy, chúng ta nhìn thấy hoa chuối đỏ tươi, bập bùng cháy như những bó đuốc. Nếu ai đã biết hoa chuối nở, sẽ thấy rằng nhà thơ chỉ viết hai chữ “đỏ tươi” nhưng cũng đủ gợi cho ta thấy hoa chuối đã làm sáng lên cả một góc rừng. Chính loài hoa đơn mộc bình lặng này lại khiến cho cảnh rừng trở nên sống động hơn.
Bên cạnh đó, hoa chuối lại được tổ điểm bởi những tia nắng ở câu thứ hai càng làm cho không khí vốn trầm mặc của nơi này trở nên linh động và tươi sáng hơn. Trên cảnh nền ấy, hình ảnh con người xuất hiện “đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Người đứng trên đỉnh đèo cao, ánh nắng chiếu vào lưỡi da trên thắt lưng làm lóe sáng. Hình ảnh này gợi lên tư thế vững chãi và sự tự tin của người làm chủ thú rừng. Thơ Tố Hữu thương mô tả con người trong tư thế ấy, bài thơ “Lên Việt Bắc” được nhà thơ ghi lại:
“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều.
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo”.
Cũng là một hình ảnh ấy, thế nhưng ở đoạn thơ trên nhà văn đã viết trong 4 câu thơ 28 chữ, còn ở bài Việt Bắc thì dường như nhà thơ đã cô đọng hơn vào 8 chữ. Tố Hữu không đi vào vẽ kĩ mà chỉ chấm phá vài nét song cũng đủ cho ta hình dung khá rõ về hình tượng. Như thế, tương ứng với một cảnh hoa là một dáng điệu của con người mà mỗi dáng điệu ấy lại toát lên phẩm chất cao quý của người Việt Bắc.
Thiên nhiên Việt Bắc trong hai câu thơ trên đã mở ra khiến cho người đọc ngẩn ngơ, bởi vẻ đẹp rất trữ tình của núi rừng Tây Bắc nơi đây. Những bông hoa chuối đỏ tươi nở ra rực rỡ giữa mùa đông lạnh giá làm cho khung cảnh thiên nhiên tuy lạnh giá nhưng lại vô cùng sinh động và ấm áp lòng người bởi sắc đỏ của hoa chuối rừng chính nét quyến rũ rất riêng. Hình ảnh người con gái đi hái măng, lấy nấm với con dao sắc nhọn là công cụ làm việc đã thể hiện được sự sinh động của con người trong công việc thường nhật của mình.
Ánh nắng của mùa đông đã làm cho không khí trở nên ấm áp hơn bao giờ hết, không phải là màu u ám, ảm đạm mà chúng ta thường thấy trong những bài thơ khác miêu tả về mùa đông. Mùa đông trong thơ của Tố Hữu vẫn đẹp, vẫn sinh động hấp dẫn lòng người hơn bao giờ hết.
Bức tranh mùa xuân trong bộ tranh tứ bình của Tố Hữu
Phân tích bức tranh tứ bình trong Việt Bắc thì hình ảnh về mùa xuân tươi đẹp khiến tâm hồn mỗi chúng ta cảm thấy xao xuyến. Bức tranh thứ hai này tiếp tục được nhà thơ mở ra với những nét chấm phá tiêu biểu. Trong hai câu thơ này, Tố Hữu đã khéo léo và linh hoạt chuyển đổi thời gian từ mùa đông sang mùa xuân. Từ hình ảnh hoa chuối rừng đỏ tươi rực rỡ sang sắc hoa mơ trắng trong tinh khiết, thể hiện không khí mùa xuân đang ngập tràn trên mảnh đất Tây Bắc.
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”.
Đến đây, nền xanh trầm tĩnh đã nhường chỗ cho nền trắng tinh khiết của hoa mơ rừng. Hai từ “trắng rừng” khiến cảnh rừng như bừng sáng. Hoa mơ là dấu hiệu báo trước khi mùa xuân tới ở nơi đây, bởi loại hoa này thường chỉ ra vào mùa xuân, giống như hoa đào và hoa mai. Hình ảnh về một rừng hoa mơ trắng thơm ngát quyến rũ, làm say đắm lòng người được gợi mở trong câu thơ làm cho người đọc ngây ngất trước cảnh đẹp của thiên nhiên. Hình ảnh người con gái chuốt từng sợi giang để làm dây gói bánh chưng, bánh tét, làm nón lá khiến cho không khí mùa xuân trở nên gần gũi ấm áp hơn bất kỳ lúc nào.
Ta nhận thấy rằng đây là hình ảnh có sức ám ảnh lớn đối với hồn thơ Tố Hữu. Bởi Việt Bắc trong nỗi nhớ của Tố Hữu dường như không thể thiếu sắc hoa này. Sau này, trong tác phẩm “theo chân Bác”, nhà thơ cũng đã viết:
“Ôi sáng xuân nay, xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về. Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”.
Trong cái nền cảnh ấy, hiện lên con người Việt Bắc với những công việc thầm lặng “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”. Hai chữ “chuốt từng” gợi ra biết bao sự cần mẫn, cẩn trọng và tài hoa. Không biết người đan nón kia gửi gắm từng sợi giang nỗi niềm gì?.
Phân tích bức tranh tứ bình trong Việt Bắc qua nét đẹp mùa hạ
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”.
Trong những bức họa trên, chúng ta mới thấy được đường nét, màu sắc và ánh sáng. Đến đây, ta nghe thấy tiếng âm thanh của rừng, đó là tiếng nhạc ve. Chính nhạc ve đã làm mọi thứ trở nên xao động. Phải nói rằng trong các bức tranh tứ bình ở đây thì mùa hè Việt Bắc là đặc sắc hơn cả. Ve kêu gọi hè đến, hè về làm cho những rừng hổ phách ngả sang vàng. Ai đã từng lên Việt Bắc, dễ thấy những hình ảnh kỳ lạ của rừng phách. Phân tích bức tranh tứ bình trong Việt Bắc, những nét đẹp của mùa hạ tươi vui cũng là những ấn tượng sâu đậm lưu giữ trong tâm trí chúng ta.
Mùa hè của sự sôi động, nó khác hẳn với sự ấm áp của mùa đông cũng như sự tinh khôi của màu xuân. Khi mùa hè tới thì rừng núi Việt Bắc râm ran tiếng ve kêu, màu vàng của hổ phách kết hợp với tiếng ve khiến cho thiên nhiên nơi đây. Tiếng ve đã phá vỡ sự tĩnh lặng và thể hiện sự chuyển biến thời gian mạnh mẽ.
Trong những ngày cuối cùng của mùa xuân, những cây phách vẫn là màu xanh, nụ hoa vẫn náu kín trong những chiếc lá. Nhưng khi những tiếng ve đầu tiên của mùa hạ cất lên thì chúng đồng loạt trổ hoa vàng. Chỉ đôi ba ngày cũng đủ khiến rừng phách trổ hoa vàng ruộm thật đẹp. Nhà thơ đã sử dụng chữ “đổ” cũng thật tinh tế và đặc sắc. Nó đã nhấn mạnh đến tính mau lẹ trong sự biến chuyển của màu sắc, đồng thời cũng diễn tả những trận mưa hoa vàng rừng phách mỗi khi có một luồng gió ào qua.

Rõ ràng, gam màu đến đây đã thay đổi hẳn, sắc trắng đã nhường chỗ cho sắc vàng nổi bật. Và dường như, âm thanh đã làm thay đổi màu sắc. Trong phông cảnh ấy, hình ảnh người lao động xuất hiện đầy kiên nhẫn – đó là cô gái Việt Bắc đang hái măng một mình. Hình ảnh này trong thơ Tố Hữu đã làm tốt lên dáng điệu chịu thương chịu khó, hay lam hay làm giàu sức hy sinh của những cô gái nơi đây.
Nét đẹp mùa thu trong bộ tranh tứ bình của Tố Hữu
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Bộ tranh tứ bình kết thúc bằng bức tranh thu. Ba bức tranh trên là cảnh ngày, riêng bức tranh mùa thu này lại là cảnh đêm. Bức tranh gợi lên ánh trăng rọi qua vòm lá tạo thành một khung cảnh huyền ảo “Rừng thu trăng rọi hòa bình”. Nó đã khiến ta nhớ đến một câu thơ cũng viết về đêm rừng Việt Bắc của Hồ Chí Minh: “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”.
Có thể thấy, hình ảnh mùa thu trên núi rừng Việt Bắc thật dịu dàng, nên thơ và trữ tình với hình ảnh ánh trăng hòa bình thể hiện sự tròn đầy và chung thủy trước sau như một của người dân nơi đây với cách mạng.
Đây đúng là khung cảnh trữ tình dành cho những cuộc hát giao duyên, cho nên nó là cảnh cuối cùng. “Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung” – chữ “ai” là cách nói bóng gió, ám chỉ người đang hát cùng với mình, làm cho lời lẽ trở nên tinh tế và tinh tứ hơn. Qua tiếng hát ấy, ta cũng thấy được phẩm chất chung thủy và ân tình của người Việt Bắc. Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng. Vì thế, phân tích bức tranh tứ bình trong Việt Bắc, ta không thể quên lưu tâm đến những nét đẹp của mùa thu.

Nhận xét bài thơ khi phân tích bức tranh tứ bình trong Việt Bắc
Như vậy, bốn bức tranh tứ bình, bốn cảnh sắc với bốn dáng điệu đều mang một vẻ đẹp khác nhau của thiên nhiên và núi rừng Tây Bắc. Nhà thơ Tố Hữu đã thâu tóm được những gì là đặc trưng nhất của quê hương cách mạng. Điều thú vị hơn cả là đều hiện lên trong điệp khúc nhớ thương. Những chữ “nhớ” đứng ở đầu câu tạo nên âm hương mặn mà và da diết của nỗi nhớ. Trong nỗi nhớ ấy, tất cả đều hiện lên lung linh hơn, huyền ảo hơn.
Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển lại hiện đại, đoạn thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau, đã làm cho bức tranh trở nên gần gũi thân quen, sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi.
Qua đoạn thơ này ta thấy tác giả Tố Hữu là người vô cùng sâu sắc, tinh tế trong ngôn ngữ cũng như trong quan sát. Ông đã khéo léo gợi lên bức tranh tứ bình thiên nhiên, con người Việt Bắc vô cùng tươi đẹp khiến người đọc ám ảnh khó quên.
Dàn ý phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
- Mở bài:
Thơ Tố Hữu dễ đến với mọi tấm lòng, không chỉ vì nội dung mà còn do giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc. Điều này được bộc lộ khá rõ trong phần đầu bài thơ Việt Bắc.
- Thân bài:
* Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết của Tố Hữu trong Việt Bắc:
– Bài thơ nói đến nghĩa tình cách mạng nhưng thi sĩ lại dùng giọng của tình thương, lời của người yêu để trò chuyện, giãi bày tâm sự. Cả bài thơ được viết theo lối đối đáp giao duyên của nam nữ trong ca dao, dân ca, và phần đầu này cũng thế – nó là lời giãi bày tâm sự giữa người đi (người về xuôi) với người ở lại là đồng bào Việt Bắc. Mười lăm năm cách mạng thành mười lăm năm ấy tha mặn nồng, người đi người ở thành mình – ta, ta – mình quấn quýt bên nhau trong một mối ân tình sâu nặng.
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn.
– Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết ấy tạo nên âm hưởng trữ tình sâu đậm của khúc hát ân tình cách mạng Việt Bắc, từ khúc hát dạo đầu Mình về mình có nhớ ta… đến những lời nhắn gửi, giãi bày Mình đi có nhớ những ngày – Mình về rừng núi nhớ ai… Ta đi ta nhớ những ngày – Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…, đến những nỗi nhớ da diết sâu nặng:
Nhớ gì như nhớ người yêu,
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương.
Nhớ từng bản khói cùng sương,
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
…..Nhớ người mẹ nắng cháy lưng,
Dịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô.
* Nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc trong Việt Bắc
– Thể thơ: Trong phần đầu (cũng như cả bài thơ), Tố Hữu đã sử dụng thể thơ dân tộc, đó là thể thơ lục bát. Thi sĩ đã nhuần nhuyễn thể thơ này và có những biến hoá, sáng tạo cho phù hợp với nội dung, tình ý câu thơ. Có câu tha thiết sâu lắng như bốn câu mở đầu, có câu nhẹ nhàng thơ mộng (Nhớ gì như nhớ người yêu…) lại có đoạn hùng tráng như một khúc anh hùng ca (Những đường Việt Bắc của ta… Đèn pha bật sáng như ngày mai lên)
– Kết cấu: Kết cấu theo lối đối đáp giao duyên của nam nữ trong ca dao dân ca là kết cấu mang đậm tính dân tộc. Nhờ hình thức kết cấu này mà bài thơ có thể đi suốt một trăm năm mươi câu lục bát không bị nhàm chán.
– Hình ảnh: Tố Hữu có tài sử dụng hình ảnh dân tộc một cách tự nhiên và sáng tạo trong bài thơ: Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn; mưa nguồn suối lũ; bước chân nát đá (sáng tạo từ câu ca dao: trông cho chân cứng đá mềm) . Có những hình ảnh chắt lọc từ cuộc sống thực cũng đậm tính dân tộc: miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai; hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son và đặc biệt là tình đậm đà của tình giai cấp:
Thương nhau chia củ sắn lùi,
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
– Ngôn ngữ: Tính dân tộc được thể hiện rõ nhất trong cặp đại từ nhân xưng ta – mình, mình – ta quấn quýt với nhau và đại từ phiếm chỉ ai. Đây là một sáng độc đáo và cũng là một thành công trong ngôn ngữ thơ ca của Tố Hữu. nhạc điệu: Trong bài thơ là nhạc điệu dân tộc với thể thơ lục bát nhịp nhàng, thiết, ngọt ngào, sâu lắng nhưng biến hoá, sáng tạo, không có đơn điệu (có hùng tráng như cảnh “Việt Bắc ra quân”, trang nghiêm như cảnh buổi họp trung ương, chính phủ…)
III. Kết bài:
Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân của Tố Hữu đã góp phần quan trọng vào thành công của bài thơ Việt Bắc, cho nó nhanh chóng đến với người đọc và vẫn sống mãi trong lòng nhân ta từ khi ra đời cho đến hôm nay.
Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Nhắc đến Việt Bắc là nhắc đến cội nguồn của cách mạng, nhắc đến mảnh đất trung du nghèo khó mà nặng nghĩa nặng tình – nơi đã in sâu bao kỷ niệm của một thời kỳ cách mạng gian khổ nhưng hào hùng sôi nổi khiến khi chia xa, lòng ta sao khỏi xuyến xao bồi hồi.
Và cứ thế sợi nhớ, sợi thương cứ thế mà đan cài xoắn xuýt như tiếng gọi “Ta – mình” của đôi lứa yêu nhau. Đúng như lời thơ Chế Lan Viên từng viết “Khi ta ở đất chỉ là nơi ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. Vâng! Việt Bắc đã hóa tâm hồn dào dạt nghĩa yêu thương trong thơ Tố Hữu với những lời thơ như tiếng nhạc ngân nga, với cảnh với người ăm ắp những kỉ niệm ân tình có bao giờ quên được.
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, thơ ông diễn tả những tình cảm cách mạng thật nhẹ nhàng mà cũng thật đậm sâu. Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ được viết vào tháng 10/1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ và cán bộ kháng chiến từ giã “Thủ đô gió ngàn” về với “Thủ đô Hoa vàng nắng Ba Đình”. Cả bài thơ là một niềm hoài niệm nhớ thương tuôn chảy về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc rất gian khổ nhưng vui tươi hào hùng. Nhưng có lẽ để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong bài ca Việt Bắc có lẽ là đoạn thơ về bức tranh tứ bình với bốn mùa xuân – hạ – thu – đông.
Mở đầu đoạn thơ là hai câu thơ giới thiệu nội dung bao quát cảm xúc chung của đoạn thơ:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Câu thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta”, câu thơ thứ hai là tự trả lời, điệp từ “ta” lặp lại bốn lần cùng với âm “a” là âm mở khiến câu thơ mang âm hưởng ngân xa, tha thiết nồng nàn. Với Tố Hữu, người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ “bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”, mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của Hoa cùng Người. Ở đây, hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc. Còn con người là con người Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo khổ nhưng đậm đà lòng son. Hoa và Người quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hòa đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất này. Chính điều ấy đã tạo nên cái cấu trúc đặc sắc cho đoạn thơ. Trong bốn cặp lục bát còn lại câu sáu dành cho nhớ hoa, nhớ cảnh, câu tám dành cho nhớ người. Cảnh và Người trong mỗi câu lại có những sắc thái đặc điểm riêng thật hấp dẫn.
Nhắc đến mùa đông ta thường nhớ đến cái lạnh thấu xương da, cái ảm đạm của những ngày mưa phùn gió bấc, cái buồn bã của khí trời u uất. Nhưng đến với Việt Bắc trong thơ Tố Hữu thì thật lạ. Mùa đông bỗng ấm áp lạ thường:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa trông tới, bông hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại. Cái màu “đỏ tươi” – gam màu nóng của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Câu thơ làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:
“Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tịn mùi hương”
Từ liên tưởng ấy ta thấy, mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè chứ không lạnh lẽo hoang sơ bởi màu đỏ của hoa chuối cũng như đang phun trào từ giữa màu xanh của núi rừng.
Cùng hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy sản xuất ra nhiều lúa khoai cung cấp cho kháng chiến “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng” . Trước thiên nhiên bao la, con người dường như càng trở nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn.Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng. Ở đây câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất – “đèo cao”. Con người đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự do “Núi rừng đây là của chúng ta/ Trời xanh đây là của chúng ta”. Đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi: Giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
Đông qua, xuân lại tới. Nhắc đến mùa xuân ta liên tưởng ngay đến sức sống mới của cỏ cây, hoa lá, của trăm loài đang cựa mình thức dậy sau mùa đông dài. Mùa xuân Việt bắc cũng vậy:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng: “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”. “Trắng rừng” được viết theo phép đảo ngữ và từ “trắng” được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc, màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Động từ “nở” làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống. Đây không phải là lần đầu tiên Tố Hữu viết về màu trắng ấy, năm 1941 Việt Bắc cũng đón bác Hồ trong màu sắc hoa mơ:
“Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”
Mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với hoạt động “chuốt từng sợi giang”. Con người đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày. Từ “chuốt” và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay của con người lao động: cần mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc.
Mùa hè đến trong âm thanh rộn rã của tiếng ve, bức tranh Việt Bắc lại sống động hơn bao giờ hết:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Thời điểm ve kêu cũng là thời điểm rừng phách đổ vàng. Động từ “đổ” là động từ mạnh, diễn tả sự vàng lên đồng loạt của hoa phách đầu hè. Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên óng vàng ra. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng hoài niệm, nên lung linh ánh sáng, màu sắc và rộn rã âm thanh. Tố Hữu không chỉ có biệt tài trong việc miêu tả vẻ đẹp riêng của từng mùa, mà còn có tài trong việc miêu tả sự vận động đổi thay của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Đây chính là một biểu hiện đặc sắc của tính dân tộc.
Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hái măng một mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương tha thiết. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả.
Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo lung linh dịu mát:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình rọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Ta cũng từng biết đến mùa thu đầy ánh trăng trong thơ của Bác khi còn ở chiến khu:
“Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu
Ấy tin thắng trận liên khu báo về”
Ở đây không có tiếng chuông báo thắng trận nhưng lại vang lên tiếng hát. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng.
Vâng! Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát “ân tình thủy chung” gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước.
Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại, đoạn thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau, làm cho bức tranh trở nên gần gũi thân quen, sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi.
Bài viết trên đã gửi đến bạn nội dung phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc. Hy vọng bài viết trên có thể giúp ích được cho bạn trong quá trình soạn bài cũng như giải đề của mình. Bức tranh tứ bình là nội dung quan trọng trong bài Việt Bắc, các bạn nhất định phải chú ý nội dung này nhé!