Soạn Văn Bài Chiếu Cầu Hiền Ngữ Văn 11 đầy đủ, Dễ Hiểu Nhất
Soạn bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm văn lớp 11 ngắn gọn, chi tiết, dễ hiểu. Xem ngay 05 bài văn mẫu phân tích chiếu cầu hiền tuyển chọn hay nhất.
Chiếu cầu hiền một án văn nghị luận cổ thời vua Quang Trung, vị vua có lòng yêu nước, luôn đề cao những bậc hiền tài của đất nước để cùng nhau xây dựng đất nước. Nhưng đây là tác phẩm từ một bậc hiền tài đang phò tá vua chính là Ngô Thì Nhậm, ông đã rất tinh tế và khéo léo thay đổi suy nghĩ của những người tri thức, kêu gọi sự hợp tác với triều đình để cống hiến cho đất nước.
Vậy Chiếu cầu hiền có nội dung gì? Giá trị nghệ thuật của áng văn nghị luận cổ này là gì? Những tư tưởng cùng thông điệp mà tác phẩm này để lại là gì? Ở bài soạn Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm bên dưới đây chúng tôi sẽ giúp bạn trả lời tất cả những câu hỏi ở trên cùng với đó là top những bài văn mẫu phân tích tác phẩm hay nhất để bạn tham khảo.
Soạn bài Chiếu cầu hiền đầy đủ nhất
Tìm hiểu chung về tác phẩm
Tóm tắt
Chiếu cầu hiền” được viết khoảng năm 1788 – 1789 nhằm thuyết phục sĩ phu Bắc Hà, các trí thức triều đại Lê – Trịnh ra công tác với triều đại Tây Sơn.
Năm 1788, sau khi nhà Lê – Trịnh sụp đổ, Ngô Thì Nhậm đã đi theo nghĩa quân Tây Sơn. Nguyễn Huệ đánh bại quân Thanh, lên ngôi hoàng đế và lấy hiệu là Quang Trung.
Ngô Thì Nhậm được Quang Trung giao cho viết “Chiếu cầu hiền” để kêu gọi sĩ phu Bắc Hà ra giúp nước cứu đời. Hiền tài cũng giống như ngôi sao sáng trên trời cao. Người hiền sẽ là sứ giả của thiên tử. Nhưng trong hoàn cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, có người thì mai danh ẩn tích bỏ phí tài năng “trốn tránh việc đời”. Có người ra làm quan thì sợ hãi, im lặng như bù nhìn “không dám lên tiếng”, hoặc làm việc cầm chừng “đánh mõ, giữ cửa”. Có kẻ “ra biển vào sông, chết đuối trên cạn mà không biết, dường như muốn lẩn tránh suốt đời”. Từ đó, vua Quang Trung đưa ra đường lối cầu hiền đúng đắn, kêu gọi người tài ra giúp nước cứu đời.
Đầu tiên, Ngô Thì Nhậm đã nêu ra mối quan hệ giữa hiền tài với thiên tử – hiền tài là sứ giả của thiên tử. Nhưng thực tế bấy giờ lại ngược lại, họ hoặc là trốn tránh không ra giúp nước hoặc là làm việc không đúng năng lực của mình. Điều đó chẳng khác nào làm trái với ý trời – có tài mà không được đời dùng. Từ đó là những đường lối cầu hiền vô cùng tiến bộ. Con đường cầu hiền theo vua Quang Trung là tiến cử với ba cách: tự mình dâng thư tỏ bày công việc, các quan tiến cử, dâng thư tự tiến cử.
Hoàn cảnh ra đời
Chiếu cầu hiền do Ngô Thì Nhậm viết thay vua Quang Trung vào khoảng năm 1788 – 1789 nhằm để thuyết phục các sĩ phu Bắc Hà ra cộng tác với triều đại Tây Sơn để xây dựng đất nước.
Thể loại
– Chiếu thuộc loại văn nghị luận cổ, thường do vua chúa ban ra để triều đình và nhân dân thực hiện.
– Có thể do vua đích thân viết nhưng thường do các văn tài võ lược viết thay vua.
– Văn thể chiếu trang trọng, lời lẽ rõ ràng, tao nhã.
– Xuống chiếu cầu hiền tài là một truyền thống văn hóa – chính trị của các triều đại phong kiến phương Đông.
Bố cục
Bố cục gồm 3 phần:
– Phần 1 (Từ đầu đến “…người hiền vậy”): mối quan hệ giữa hiền tài và thiên tử
– Phần 2 (Tiếp đến “…hay sao?”): thực tại và nhu cầu của thời đại
– Phần 3 (Còn lại): đường lối cầu hiền của vua Quang Trung
Tác giả Ngô Thì Nhậm
– Ngô Thì Nhậm (1764 – 1803), hiệu Hi Doãn, quê: Người làng Tả Oai, trấn Sơn Nam (nay là huyện Thanh Trì – Hà Nội).
– Là người học giỏi đỗ đạt, từng làm quan đại thần dưới thời chúa Trịnh.
– Khi nhà Lê -Trịnh sụp đổ, ông đi theo phong trào Tây Sơn, được vua Quang Trung phong làm Lại bộ Tả thị lang, sau thăng chức Binh bộ Thượng thư.
– Ông là người có nhiều đóng góp tích cực cho triều đại Tây Sơn.
Tìm hiểu chi tiết về tác phẩm Chiếu cầu hiền
Viết chiếu cầu hiền tài là một truyền thống văn hóa chính trị phương Đông thời cổ trung đại. Chiếu cầu hiền của vua Quang Trung do Ngô Thì Nhậm viết thay vào khoảng năm 1788 – 1789, nhằm thuyết phục các sĩ phu Bắc Hà, tức các trí thức của triều đại cũ (Lê – Trịnh) ra cộng tác với triều đại Tây Sơn.
Nội dung
Chiếu cầu hiền là một văn kiện lịch sử thể hiện chủ trương đúng đắn của nhà Tây Sơn nhằm động viên trí thức Bắc Hà tham gia xây dựng đất nước.
Nghệ thuật
Là một áng văn nghị luận mẫu mực với:
– Lập luận chặt chẽ, hợp lí, thuyết phục
– Lời lẽ khiêm nhường, chân thành
– Từ ngữ, hình ảnh:
+ Sử dụng điển cố, hình ảnh ẩn dụ
+ Từ ngữ giàu sức gợi
Tìm hiểu chi tiết tác phẩm
- Quy luật xử thế của người hiền
Người hiền tài như ngôi sao sáng trên trời: so sánh người hiền tài như vì sao tinh tú là sự đề cao vị trí, vai trò của người hiền tài.
Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần: Bắc Thần (sao Bắc Đẩu) tượng trưng cho ngôi vua, ý muốn nói người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử.
Qua đó để nói lên mối quan hệ gắn bó, vai trò của người hiền đối với thiên tử trong công cuộc trị nước.
“Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy.”
Ở đây tác giả mượn ý trời, xem việc người hiền tài về với thiên tử là hợp quy luật, nếu người hiền tài tự giấu mình là trái ý trời, một cách nói gián tiếp, trực tiếp ngắn gọn, giàu hình ảnh được chọn làm luận đề thuyết phục người đọc, đánh trúng tâm lý của kẻ sĩ, những con người luôn muốn đem sức mình cho giang sơn xã tắc.
- Thực trạng và nhu cầu của thời đại
Thái độ của sĩ phu Bắc Hà và tâm trạng của vua Quang Trung
– Thái độ của sĩ phu Bắc Hà:
+ “Kẻ sĩ ẩn trong ngòi khe trốn tránh việc đời”: kẻ sĩ mai danh ẩn tích, uổng phí tài năng.
+ “Những bậc tinh anh trong triều, phải kiêng dè không dám lên tiếng”: người ra làm quan thì giữ mình không dám nói thẳng.
+ Nhiều người có tài năng còn chưa chịu ra giúp nước
– Tâm trạng của vua Quang Trung:
+ “Nay trẫm đang lắng nghe, ngày đêm mong mỏi,…”: khắc khoải chờ người hiền ra giúp nước
+ Hàng loạt các câu hỏi (hay trẫm ít đức…? Hay đang thời đổ nát…?): thái độ khiêm tốn, chân thành nêu rõ lịch sử đã sang trang, cơ hội để người hiền tài ra giúp nước. Câu hỏi buộc người nghe phải thay đổi cách ứng xử.
– Thực trạng:
+ Triều đình chưa ổn định
+ Biên ải chưa yên
+ Dân chưa lại sức
+ Ân đức vua chưa thấm nhuần khắp nơi
Chính bởi Triều đại mới lập, nhiều nhiệm vụ, khó khăn mới.
– Nhu cầu của thời đại:
+ Hình ảnh “Một cái cột không thể đỡ nổi căn nhà lớn,…trị bình”, điều này khẳng định vai trò to lớn của người hiền.
+ Dẫn lời Khổng Tử: “Cứ cái ấp mười nhà… của trẫm sao?”, để khẳng định nước ta có nhiều nhân tài, họ cần ra giúp nước.
+ Lời tâm sự chân thành, khiêm nhường nhưng kiên quyết và đầy sức thuyết phục.
+ Quang Trung là một vị vua yêu nước, thương dân, có lòng chiêu hiền đãi sĩ.
Tất cả đều hướng đến lí do xuất phát từ quyền lợi của dân, mọi chủ trương chiến lược đều xuất phát từ khát vọng đất nước cường thịnh.
- Con đường cầu hiền của vua Quang Trung
Đường lối tiếp nhận người hiền:
+ Tự mình dâng thư tâu bày
+ Quan văn, quan võ được phép tiến cử
+ Những người ở ẩn được phép tự tiến cử
Khẳng định tính dân chủ qua hình thức tự tiến cử và tiến cử của chính người hiền tài, không có một ràng buộc hay o ép nào.
Soạn bài Chiếu cầu hiền theo câu hỏi SGK
Câu 1 (trang 70 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
Bài chiếu gồm ba phần:
– Phần mở đầu (từ đầu đến… ý trời sinh ra người hiền vậy): Nêu sứ mệnh của kẻ hiền tài, khẳng định người hiền tài có sứ mệnh phò tá cho thiên tử.
– Phần nội dung (tiếp theo đến… vì mưu lợi mà phải bán rao): Lời kêu gọi người hiền và hứa hẹn về chính sách trọng dụng người hiền của nhà nước, hoàn cảnh của đất nước và sự cần thiết của người tài đối với vận mệnh quốc gia.
– Phần kết (còn lại): Lời bố cáo, đường lối cầu hiền của vua Quang Trung.
Nội dung chính của bài Chiếu cầu hiền: Nội dung chính của bài chiếu: nêu chủ trương chiến lược và tấm lòng của vua Quang Trung trong việc tập hợp người hiền tài để xây dựng đất nước. Đưa ra các quan điểm:
+ Người hiền xưa nay bao giờ cũng cần thiết cho công cuộc trị nước.
+ Cho phép tiến cử người hiền.
+ Cho phép người hiền tự tiến cử.
Câu 2 (trang 70 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
Câu 2 (trang 70 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1)
Đối tượng hướng tới của bài viết là: các bậc nho sĩ, sĩ phu Bắc Hà tài đức, từng phụng sự cho triều Lê – Trịnh.
– Các luận điểm đưa ra để thuyết phục là:
+ Phần mở đầu: Mối quan hệ giữa hiền tài và thiên tử. Người hiền tài phải quy thuận về với nhà vua. Nêu quy luật xuất xứ của người hiền: người hiền tài phải do thiên tử sử dụng, nếu không sử dụng là trái luật trời.
+ Trong phần 2, tác giả nêu ra cách ứng xử, thái độ của bậc hiền tài khi Tây Sơn ra Bắc phù Lê diệt Trịnh.
+ Phần cuối, nêu lên thái độ trọng nhân tài của Quang Trung. Đó là thái độ hết sức khiêm nhường, chân thành và cũng rất quyết tâm. Nhà vua giãi bày tâm sự của mình. Con đường cầu hiền của Quang Trung: tiến cử có 3 cách (tự mình dâng thư tỏ bày công việc, các quan tiến cử, dâng thư tự cử).
– Cách lập luận rất chặt chẽ, lời văn ngắn gọn, đủ sức thuyết phục, vừa đề cao người hiền, vừa châm biếm, vừa ràng buộc vừa mở con đường cho người hiền. Lời lẽ ý tứ giàu sức thuyết phục khi tác giả đứng trên quyền lợi của dân tộc, của đất nước.
+ Tác giả đưa ra luận đề mà bất cứ người hiền tài nào cũng không thể phủ nhận được. Đặc biệt lời dẫn của Khổng Tử.
+ Tác giả đưa ra những sự kiện trên bằng cách vừa lấy ý tứ từ kinh dịch và đều mang tính ẩn dụ
+ Những lời lẽ chân thành, da diết trong chờ đợi và mong mỏi.
– Bài viết mở đầu bằng những câu văn khích lệ nói lên vai trò và sứ mệnh của người hiền. Lập luận tiếp tục được triển khai bằng những lời văn đầy khoan dung thể hiện thái độ cầu thị, trọng dụng người tài của Quang Trung. Cuối cùng nhà vua kêu gọi người có tài đức hãy cùng gánh vác việc nước và hưởng phúc lâu dài.
Nghệ thuật lập luận tài tình, thuyết phục: cách lập luận thấu tình đạt lí, lời lẽ mềm mỏng khiêm nhường, tư duy mạch lạc. Từ ngữ trang trọng, lời văn mẫu mực, lập luận chặt chẽ, khúc chiết kết hợp với tình cảm tha thiết, mãnh liệt và đầy sức thuyết phục , cách bày tỏ thái độ khiêm tốn của người viết (cũng là người có tư tưởng chỉ đạo – vua Quang Trung).
Câu 3 (trang 70 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
Nhận xét về tư tưởng và tình cảm của vua Quang Trung:
– Thái độ của nhà vua: khiêm tốn, chân thành, cầu thị, thực lòng mong muốn sự cộng tác của các bậc hiền tài.
– Tình cảm: lo lắng cho đất nước, quý trọng người hiền tài.
– Tầm tư tưởng mang tính chiến lược, chủ trương tập hợp nhân tài để xây dựng đất nước hùng mạnh, đề cao vai trò của người hiền tài với quốc gia.
Quang Trung là một vị vua có cái nhìn đúng đắn và xa rộng. Biết trân trọng những kẻ sĩ, ngời hiền, biết hướng họ vào mục đích xây dựng quốc gia vững mạnh.
– Quang Trung là một vị vua hết lòng vì dân vì nước.
+ Lo củng cố xã tắc, chú ý tới muôn dân
+ Mọi tầng lớp nhân dân từ quan đến dân, từ quan nhỏ đến quan lớn đều có thể dâng thư bày tỏ công việc. Đó chính là chính sách lấy dân làm trọng.
– Quang Trung là một vị vua thể hiện tư tưởng dân chủ tiến bộ.
+ Phát hiện nhân tài bằng nhiều biện pháp.
+ Không phân biệt quan lại hay thứ dân.
+ Chân thành bày tỏ tấm lòng mình.
=> Chiếu cầu hiền thể hiện tầm nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung trong công cuộc xây dựng đất nước sau thời phân li.
Vì rõ ràng lợi ích của đất nước đòi hỏi sự cộng tác của người hiền tài, vua quang Trung đã tỏ rõ thái độ khiêm tốn, thái độ chân thành, thực sự mong muốn sự cộng tác của các bậc hiền tài.
Dàn ý phân tích tác phẩm Chiếu cầu hiền
Mở bài
Giới thiệu đôi nét về tác giả Ngô Thì Nhậm: Một Nho sĩ toàn tài có đóng góp to lớn, tích cực cho triều đại Tây Sơn
Khái quát về tác phẩm Chiếu cầu hiền: là tác phẩm được sáng tác nằm mục đích kêu gọi các hiền tài khắp mọi nơi cởi bỏ tị hiềm, gắng đem hết tài sức của bản thân ra giúp vua trong sự nghiệp chấn hưng đất nước
Thân bài
– Quy luật xử thế của người hiền và mối quan hệ giữa người hiền và thiên tử
+ Mở đầu là một hình ảnh so sánh: “Người hiền như sao sáng trên trời”: nhấn mạnh, đề cao vai trò của người hiền
+ “Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần”: quy luật tự nhiên, thể hiện sự khẳng định người hiền phụng sự cho thiên tử là một cách xử thế đúng, là lẽ tất yếu, hợp với ý trời.
– Khẳng định: “Nếu như che mất … người hiền vậy”: Người hiền có tài mà đi ẩn dật, lánh đời như ánh sáng bị che lấp, như vẻ đẹp bị giấu đi
+ Hiền tài như sao sáng, cần phải ra sức giúp thiên tử trị vì, nếu không là trái quy luật, đạo trời
+ Cách lập luận chặt chẽ, thuyết phục, cách đặt vấn đề hấp dẫn, có sức thuyết phục
– Cách hành xử của sĩ phu Bắc Hà và nhu cầu của đất nước
Cách hành xử của sĩ phu Bắc Hà:
+ Khi thời thế suy vi:
Mai danh ẩn tích bỏ phí tài năng;
Ra làm quan: sợ hãi, im lặng như bù nhìn hoặc làm việc cầm chừng;
Một số “ra biển vào sông”: ẩn đi mỗi người một phương
=> Sử dụng hình ảnh lấy từ kinh điển Nho gia hoặc mang ý nghĩa tượng trưng: Tạo cách nói tế nhị, châm biếm nhẹ nhàng; thể hiện kiến thức sâu rộng của người cầu hiền
– Khi thời thế đã ổn định: “chưa thấy có ai tìm đến”, thể hiện tâm trạng của vua Quang Trung, niềm khắc khoải mong chờ người hiền ra giúp nước
– Hai câu hỏi tu từ liên tiếp “Hay trẫm ít đức…vương hầu chăng”: Thôi thúc, khiến người nghe tự suy ngẫm
=> Cách nói khiêm tốn nhưng thuyết phục, tác động vào nhận thức của các hiền tài buộc người nghe phải thay đổi cách ứng xử
-Thực trạng và nhu cầu của thời đại
+Tình hình đất nước hiện tại:
Buổi đầu dựng nghiệp nên triều chính chưa ổn định;
Biên ải chưa yên;
Dân chưa hồi sức sau chiến tranh;
Đức của vua chưa nhuần thấm khắp nơi
=> Cái nhìn toàn diện sâu sắc: triều đại mới tạo lập, mọi việc đang bắt đầu nên còn nhiều khó khăn
– Nhu cầu thời đại: hiền tài phải ra trợ giúp nhà vua
+ Sử dụng hình ảnh cụ thể “Một cái cột… trị bình”: Đề cao và khẳng định vai trò của hiền tài
+ Dẫn lời Khổng Tử “Suy đi tính lại…hay sao”: Khẳng định sự tồn tại của nhân tài trong nước
=> Đưa ra kết luận người hiền tài phải ra phục vụ hết mình cho triều đại mới
=> Quang Trung là vị vua yêu nước thương dân, có tấm lòng chiêu hiền đãi sĩ.
Lời lẽ: khiêm nhường, chân thành, tha thiết nhưng cũng kiên quyết, có sức thuyết phục cao
– Con đường để hiền tài cống hiến cho đất nước:
+ Cách tiến cử những người hiền tài:
Mọi tầng lớp đều được dâng thư bày tỏ việc nước;
Các quan được phép tiến cử người có tài nghệ;
Những người ở ẩn được phép dâng sớ tự tiến cử.
=> Biện pháp cầu hiền đúng đắn, thiết thực và dễ thực hiện
– “Những ai … tôn vinh”: lời kêu gọi, động viên mọi người tài đức ra giúp nước:
=> Quang Trung là vị vua có tư tưởng tiến bộ
– Nghệ thuật
+ Cách nói sùng cổ
+ Lời văn ngắn gọn, súc tích, tư duy sáng rõ, lập luận chặt chẽ, khúc chiết đủ lí đủ tình
Kết bài
– Khái quát lại những nét đặc sắc tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật của văn bản
– Tác phẩm thể hiện tầm nhìn chiến lược của vua Quang Trung và triều đình Tây Sơn trong việc cầu hiền tài phục vụ cho sự nghiệp dựng nước.
Bạn có thể tham khảo bài giảng về tác phẩm Chiếu cầu hiền – Ngô Thì Nhậm tại:
https://www.youtube.com/watch?v=f6rruPgyDiQ
Top văn mẫu phân tích tác phẩm Chiếu cầu hiền hay nhất
Mẫu 01: Phân tích tác phẩm Chiếu cầu hiền súc tích nhất
Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm được ra đời sau khi Nguyễn Huệ lên ngôi, ông đã giao cho Ngô Thì Nhậm viết bài chiếu để chiêu mộ người có đức có tài ra phục vụ triều đình, giúp dân giúp nước. Thay tâm nguyện của nhà vua, Ngô Thì Nhậm đã thể hiện cho muôn dân thấy được tấm lòng vì dân vì nước của vua Quang Trung, cũng như sự hiểu biết, tầm nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung.
Yêu cầu của một bài chiếu là rất cao, rất khắt khe, người viết phải am hiểu sâu sắc hoàn cảnh lịch sử xã hội, nắm được những đòi hỏi của đất nước lúc bấy giờ, dùng những lời lẽ để thuyết phục được lòng dân, khiến muôn dân tâm phục khẩu phục. Ngô Thì Nhậm là một người tài giỏi, có trình độ uyên thâm lỗi lạc, là người có tài thuyết phục lòng người. Tác phẩm Chiếu cầu hiền đã thể hiện một tài năng xuất sắc của tác giả vì cách lập luận chặt chẽ, lời lẽ rõ ràng, tao nhã.
Ngay từ những câu mở đầu của bài chiếu, với những lời lẽ sâu sắc, tác giả đã khiến lòng người phải nể phục.
“Từng nghe: Người hiền ở trên đời cũng như sao sáng trên trời. Sao tất phải chầu về Bắc thần (ý này của Khổng Tử trong sách Luận ngữ), người hiền tất phải do thiên tử sử dụng”.
Tác giả đã thay mặt nhà vua mà khẳng định với muôn dân rằng, người hiền tài là những tài sản quý giá của đất nước, giống “như sao sáng trên trời”, mà người tài tất phải ra giúp vua trị nước mới xứng với “ý trời” đã sinh ra. Cách so sánh đầy sáng tạo của tác giả đã làm tăng thêm ý nghĩa thuyết phục của bài Chiếu. Hình ảnh “sao sáng trên trời” tượng trưng cho sự tinh anh, khiến nhà vua rất lấy làm trân trọng.
Sau khi đã chỉ ra tầm quan trọng của người tài đối với vua, đối với dân với nước, tác giả lại đưa ra những khó khăn trong việc thu phục người tài ra giúp nước. Nếu không thu phục được hết người tài thì thật là phì hoài. “Trước đây, thời gấp vận dụng, trung châu làm việc, người hiền ở ẩn, cố giữ tiết tháo như da bò bền, người ở triều đường không dám nói năng như hàng trượng mã. Cũng có người đánh mõ giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết, chỉ lo trốn tránh, hầu đến trọn đời”. Nhà vua có ý muốn trách những người tài của đất nước. Nếu trong cảnh chiến sự thì việc quốc sự còn nhiều nhưng nay đất nước đã thái bình, nhà vua cần có sự hợp sức của nhân tài để quốc gia được phồn vinh, thịnh vượng hơn. Thế mà người hiền thì ở ẩn hoặc cố ý giữ lấy khí tiết của mình mà không để ý đến việc quốc gia đại sự. Hoặc có những người cũng ra giúp vua nhưng không tận tâm trong công việc. Tác giả viết: “Cũng có người giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết”. Đây là cách phê phán nhẹ nhàng và tế nhị nhưng ẩn ở phía sau là những hàm ý rất thâm thúy.
Nhân tài là vật báu mà ông trời đã ban cho đất nước đó, vì vậy việc tập hợp người hiền tài giúp nước là công việc gấp gáp và quan trọng hơn lúc nào hết, nhà vua luôn “sớm hôm mong mỏi”. Vua Quang Trung là một trong những vị vua anh minh của dân tộc, sau khi đã dẹp xong giặc, ông rất quan tâm đến đời sống của nhân dân. Trong thực tế lịch sử sau khi đất nước đã hòa bình, yên ổn thì “dân khổ chưa hồi sức” nên đặt ra nhiều vấn đề lớn để ổn định và phát triển triều đại. “Dân khổ chưa hồi sức, đức hóa chưa thấm nhuần, trẫm chăm chăm run sợ, mỗi ngày muôn việc lo toan. Nghĩ rằng: sức một ngày không chổng nổi tòa nhà to, mưu lược của kẻ thù sẽ không dựng được thái bình”. Đoạn văn chứa đựng tấm lòng nhà vua vì sự bình an dân chúng và sự phồn vinh nước nhà. Những lời văn chan chứa tâm huyết của vua Quang Trung cho thấy vua không lúc nào không nghĩ đến cuộc sống của người dân và lo toan cho quốc gia đại sự. Tấm lòng đó quả là rộng lớn và quý báu của một vị vua suốt đời dâng hiến cho dân tộc. Có một nhà vua với những lí tưởng cao đẹp như thế đất nước sẽ luôn được thái bình, dân chúng sẽ luôn được hưởng ấm no hạnh phúc.
Toàn bộ bài Chiếu thể hiện rõ tình yêu nước thương dân nồng nàn của một nhà lãnh đạo tài ba. Để hợp sức dân lại xây dựng cơ nghiệp đất nước, nhà vua không loại trừ một tầng lớp xã hội nào, miễn là công dân trong nước có tài và đức đủ để gánh vác chuyện quốc gia đều được lựa chọn vào trong triều giúp vua xây dựng đất nước. “Vậy ban chiếu xuống, quan việc lớn nhỏ và dân chúng trăm họ ai có tài năng học thuật, mưu hay giúp ích cho đời, đều cho phép được dâng thư bày tỏ công việc”.
Vua Quang Trung là một trong những vị vua đầu tiên luôn đề cao tối đa tính dân chủ trong việc tuyển dụng nhân tài giúp nước Cách nhìn xa trông rộng đó chứng tỏ nhà vua là người am hiểu quy luật phát triển của lịch sử, đã thấy được tương lai sau này của đất nước. Sự tiên tri đó nói lên tài phán đoán, tiên tri của một vị vua anh minh đối với quốc gia, dân tộc, bởi vì trong sâu thẳm tấm lòng nhà vua luôn nung nấu một khát vọng làm sao cho dân no ấm, hạnh phúc, đất nước giàu mạnh. Đó cũng chính là mơ ước của người dân nhằm canh tân nước nhà.
Bài Chiếu cầu hiền thể hiện cái tài, cái tâm của vua Quang Trung và cũng là cái tài, cái tâm của Ngô Thì Nhậm. Với tài năng xuất chúng của mình, Ngô Thì Nhậm đã truyền tải hết được tấm lòng đối với dân với nước của vua Quang Trung, khiến muôn dân thán phục. Với tài năng và đức độ của vị vua anh minh này, dân tộc ta đã có một thời kì được ấm no, hạnh phúc, đó là thời kì thịnh vượng của nước nhà.
Mẫu 02: Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Chiếu cầu hiền ngắn gọn
“Chiếu cầu hiền” của vua Quang Trung được viết bởi Ngô Thì Nhậm không chỉ mang giá trị của một bài chiếu mà đó còn là tác phẩm có giá trị văn học. Tác phẩm được viết ra nhằm kêu gọi, thuyết phục người hiền, sĩ phu Bắc Hà ra phụ giúp vua cùng xây dựng đất nước ấm no giàu mạnh. Qua bài chiếu, ta thấy được tấm lòng vì dân vì nước và tài nhìn xa trông rộng của đức minh quân Quang Trung.
Chiếu cầu hiền ra đời là một lời kêu gọi tha thiết người hiền tài ra giúp nước, ngay phần mở đầu, ta đã thấy được quan điểm về người hiền – kẻ sĩ đời xưa của vua Quang Trung: “Người hiền ở trên đời như sao sáng ở trên trời. Sao tất phải chầu về Bắc thần, người hiền tất phải do thiên tử sử dụng”, nhà vua nhận thức được và khẳng định tầm quan trọng của người hiền đối với vận mệnh đất nước. Nhưng cũng thấy được thực trạng những khó khăn khi thu phục người hiền, những kẻ lúc đất nước có nhiều biến cố vẫn giữ vững khí tiết, như “ngựa đứng trong hàng nghi lễ”, hay như “bậc cao ẩn giấu kín danh tiếng không xuất hiện suốt đời”.
Tuy không phê phán cũng không ngợi ca nhưng đã khẳng định rằng “nếu giấu mình ẩn tiếng, có tài mà không để cho đời dùng thì không đúng với ý trời sinh ra người hiền”. Đối với nhà vua, người có hiền tài là phải đem tài đó ra giúp đời, giúp người, phục vụ tổ quốc. Vua Quang Trung sớm hôm mong mỏi người hiền tài “trẫm hiện đương ngồi bên mép chiếu, chăm chú lắng nghe, sớm hôm mong mỏi”, nhà vua không ngồi ở chính giữa mà chỉ ngồi ở “mép chiếu” để mong đợi người hiền tài, chăm chú lắng nghe những lời của người hiền. Đoạn văn đã cho thấy sự mong mỏi tha thiết cháy lòng của vua Quang Trung đối với những kẻ sĩ. Nhà vua coi trọng người hiền tài như vậy bởi vì ông biết đất nước có thịnh được hay không là nhờ vào họ, nhà vua biết nhìn xa trông rộng, mang một tấm lòng của bậc minh quân đêm ngày một nỗi lo vì nước vì dân. Câu hỏi của vua Quang Trung: “Hay trẫm là người ít đức, không xứng để những người ấy phò tá hay chăng?”, mang một nỗi tha thiết, khiến cho người đọc xúc động mà thiêng liêng, nhà vua đã tự phán xét mình, suy ngẫm về chính mình, câu hỏi ấy như rút ruột giãi bày một cách chân thành đáng để người đời ngợi ca.
Lo cho đất nước khi còn đang trẻ tuổi “mọi sự đang bắt đầu”, “kỷ cương triều đình còn nhiều điều thiếu sót, công việc biên ải chính lúc lo toan” và nhân dân thì đang “khốn khổ còn chưa hồi sức, việc giáo hóa đạo đức chưa thấm nhuần”. Bài chiếu đi sâu vào tấm lòng con người bởi chính tấm lòng chân thành của nhà vua, khiến cho người nghe xúc động, tự chất vấn lại mình và khơi dậy lòng quyết tâm đem tài mình ra góp sức chung xây dựng non sông đất nước. Những câu hỏi ấy của vua Quang Trung còn thể hiện niềm tin vào dân “Làm nên ngôi nhà lớn không phải chỉ một cành cây, xây dựng nền thái bình không chỉ mưu lược của một kẻ sĩ”. Nhà vua coi trọng sự đoàn kết của toàn dân tộc, tinh thần chung sức đồng lòng của nhân dân, cũng như khẳng định có những người tài kiệt xuất hơn ông “trong một ấp mười nhà cũng có người trung tín, huống chi một đất nước rộng lớn có truyền thống văn chương như thế”. Điều đáng ngợi ca trong bài chiếu đó là sự công bằng trong việc trổ tài của mọi người: “Ai có tài năng học thuật, mưu hay giúp ích cho đời đều cho phép được dâng thư tỏ bày công việc”. Ông cho rằng, nhân tài là ở khắp nơi, phải biết lắng nghe và khuyến khích họ, bài chiếu cũng là lời trấn an để những người sĩ phu đang đứng giữa ngã ba đường kia có thể đặt niềm tin vào vị vua mới. “Người có lời lẽ có thể dùng được thì đặc cách bổ dụng, người có lời lẽ không dùng được thì để đây, chứ không bắt tội nói viển vông, không thiết thực”. Ông còn cho phép các quan được tiến cử người tài “tùy tài mà bổ dụng”. Tất cả đã cho thấy tình cảm của Quang Trung không chỉ tha thiết kêu gọi người tài mà còn làm ấm lòng dân bởi những chính sách công bằng nghiêm minh.
Bài “Chiếu cầu hiền” là một tác phẩm chứa đựng tấm lòng cao cả đáng khâm phục và ngợi ca của vua Quang Trung, một tư tưởng tiến bộ, đúng đắn và trung thực, tâm huyết, sự chân thành và nhân cách cao đẹp của vua Quang Trung trong việc kêu gọi người hiền tài ra giúp nước.
Mẫu 03: Phân tích tác phẩm Chiếu cầu hiền chi tiết hay nhất
Ngô Thì Nhậm là một người hiền tài, được vua Quang Trung hết lòng trọng dụng. Viết chiếu cầu hiền là một nét văn hóa đặc biệt của phương Đông. Trong buổi đầu dựng nước, đất nước còn gặp nhiều khó khăn, Ngô Thì Nhậm đã viết Chiếu cầu hiền dưới sự yêu cầu của vua Quang Trung. Tác phẩm vừa thể hiện chiến lược đứng đắn vừa là một áng văn xuất sắc.
Ngô Thì Nhậm viết Chiếu cầu hiền vào khoảng năm 1788 – 1789, bài chiếu được viết nhằm thuyết phục các sĩ phu Bắc Hà, tức các trí thức của triều đại cũ – nhà Lê ra giúp sức cho triều đại mới – nhà Tây Sơn. Tác phẩm có bố cục mạch lạc, liên kết chặt chẽ với nhau: phần 1 nêu lên vai trò, sứ mệnh của người hiền tài đối với vận mệnh đất nước; phần 2 đưa ra những trăn trở của vua Quang Trung nhằm kêu gọi người tài ra giúp nước; phần còn lại đưa ra hình thức, con đường để người hiền tài ra giúp đỡ đất nước. Với bố cục mạch lạc, chặt chẽ Ngô Thì Nhậm đã thực hiện thành công mục đích viết chiếu của mình.
Điều đầu tiên tác giả đề cập đến chính là vai trò to lớn của người hiền tài đối với sự hưng thịnh, suy vong của một đất nước. Ông sử dụng hình ảnh so sánh đặc sắc và hết sức chính xác: “Người hiền xuất hiện ở đời, thì như ngôi sao sáng trên trời cao” câu văn đã khẳng định vai trò, vị trí quan trọng của người hiền đối với quốc gia dân tộc, đây đồng thời cũng như sự tôn vinh, khen ngợi đối với họ. Không dừng lại ở đó, Ngô Thì Nhậm tiếp tục khẳng định: “Sao sáng ắt chầu về ngôi Bắc Thần, người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử. Nếu như che mất ánh sáng, giấu đi vẻ đẹp, có tài mà không được đời dùng, thì đó không phải là ý trời sinh ra người hiền vậy”. Với cách so sánh đầy sáng tạo, tác giả khẳng định sự trân trọng người hiền tài khi so sánh họ như những vì tinh tú trên trời, họ là kết tinh của sự tinh anh và tài hoa bởi vậy phải đem tài năng của mình ra phục vụ đất nước. Với lập luận hết sức chặt chẽ, tác giả đã bước đầu thuyết phục được người hiền tài.
Nhưng để bài chiếu có sức thuyết phục cao hơn nữa, phần tiếp theo của tác phẩm, Ngô Thì Nhậm nêu lên những khó khăn trong hành trình thu phục người hiền tài ra giúp nước. “Trước đây, thời gặp vận dụng, trung châu làm việc, người hiền ở ẩn, cố giữ tiết tháo như da bò bền, người ở triều đường không dám nói năng như hàng trượng mã. Cũng có người đánh mõ giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết, chỉ lo trốn tránh, hầu đến trọn đời”. Nếu như trong buổi suy vi, những nhà Nho thường lánh đời, bỏ chỗ đục tìm về chỗ trong để giữ trọn khí tiết thanh cao của mình là điều dễ hiểu, nhưng nay đã sang một thời đại mới vì sao vẫn mãi “lẩn tránh” câu văn như một lời trách cứ vừa nhẹ nhàng vừa đanh thép với kẻ sĩ lúc bấy giờ. “Nay trẫm ghé chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi, nhưng những người học rộng tài cao chưa ai tìm đến. Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng? Hay thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng”. Câu văn vừa thể hiện sở nguyện tha thiết, chân thành, “ghé chiếu” để mời người hiền tài ra giúp nước. Nhưng đồng thời thể hiện sự phê phán nhẹ nhàng mà thâm thúy qua hai câu hỏi tu từ ở phía sau. Đánh động vào suy nghĩ, nhận thức của những kẻ hiền tài vẫn chưa chịu ra giúp đời, giúp triều đại mới.
Buổi đầu dựng nước gặp phải biết bao khó khăn: “kỉ cương nơi triều chính còn nhiều khiếm khuyết, công việc ngoài biên đương phải lo toan” không chỉ vậy, đời sống người dân chưa ổn định “dân còn nhọc mệt chưa lại sức” sau những năm dài chinh chiến. Bởi vậy, càng nhận thấy rõ hơn sự góp sức của người tài có ý nghĩa quan trọng nhường nào đối với đất nước: “Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình”. Câu văn thể hiện thái độ trân thành của vua Quang Trung, ông một lòng muốn mời người hiền ra giúp nước cũng là bởi lo cho đời sống nhân dân, lo cho sự an nguy, độc lập của đất nước. Đó là những lời tâm huyết và chân thành xuất phát từ trái tim yêu nước thương dân mãnh liệt. Tấm lòng đó quả đáng trân trọng và đáng tự hào biết bao.
Đoạn văn tiếp theo cho thấy rõ tầm nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung. Để hợp sức toàn dân, đồng lòng xây dựng triều đại mới ông ban bố chiếu để mời gọi người hiền ra giúp nước. Hình thức vô cùng đa dạng: “cất nhắc không kể thức bậc”, “không vì lời nói sơ suất mà vu khoát, bắt tội”, “được tiến cử” “tự tiến cử”,… cốt sao để người hiền tài có được những điều kiện thuận lợi nhất để họ có thể đem sức mình cống hiến cho sự nghiệp chung của nước nhà.
Với những lời lẽ chân thành, tha thiết ta có thể thấy tầm nhìn xa trông rộng của Quang Trung trong tiến trình tái tạo và xây dựng một triều đại mới. Triều đại đó nếu chỉ hùng cường về quân sự thôi chưa đủ mà còn phải hùng mạnh về người tài, bởi “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Vua Quang Trung là một người lãnh đạo có trí tuệ, khiêm tốn, chân thành và một lòng lo lắng cho sự nghiệp dựng nước. Trong toàn bộ bài chiếu ta không hề thấy ông một lần nhắc đến những sĩ phu Bắc Hà không cộng tác với nhà Tây Sơn. Điều đó cho thấy lối ứng xử khéo léo, khiêm nhường và chỉ duy nhất hướng đến mục đích kêu gọi sự hợp tác của người hiền tài.
Tác phẩm sử dụng nhiều điển tích, điển cố Hán học giúp cho việc trình bày tư tưởng quan điểm trở nên súc tích, rõ ràng. Ngoài ra, lớp ngôn từ ông sử dụng chủ yếu nói về nhân dân, đất nước, triều đại,… tạo nên lớp ngôn từ mang không khí trang nghiêm, nhấn mạnh vào sự thiêng liêng của sự nghiệp dựng nước đang mong mỏi sự giúp sức của người hiền tài. Nghệ thuật lập luận tài tình, chặt chẽ, logic, hợp lí tạo sức thuyết phục cao đối với người đọc.
Chiếu cầu hiền là một văn kiện quan trọng thể hiện tư tưởng sáng suốt của triều Tây Sơn khi kêu gọi người hiền tài ra giúp sức trong buổi đầu của triều đại mới. Đồng thời cũng thấy được sự khiêm nhường, tấm lòng chân thành và tầm nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung nhận thấy vai trò quan trọng của người tài đối với quá trình xây dựng đất nước.
Mẫu 04: Phân tích tác phẩm Chiếu cầu hiền tuyển chọn
Ngô Thì Nhậm sinh năm 1746, là người Thanh Trì, Hà Nội. Sinh thời, ông từng làm Đông đốc trấn Kinh Bắc dưới thời chúa Trịnh, sau khi nhà nhà Lê- Trịnh bị suy vong, ông tiếp tục ra làm quan và có nhiều công lao lớn với triều đại Tây Sơn. Được Nguyễn Huệ giao phó nhiều trọng trách lớn. Những văn kiện có tính quan trọng đều do một tay Ngô Thì Nhậm soạn thảo, một trong số đó có thể nhắc đến “Chiếu cầu hiền”.
Chiếu cầu hiền được Ngô Thì Nhậm viết vào khoảng năm 1788 – 1789, theo lệnh của Vua Quang Trung, mục đích của nó là nhằm kêu gọi những người hiền tài ra cộng sự, giúp vua xây dựng triều đại, đặc biệt là các tầng lớp trí thức sĩ phu Bắc Hà.
Mở đầu bài chiếu, tác giả khẳng định vai trò và sứ mệnh của những người hiền tài với quốc gia, dân tộc. Ngô thì Nhậm ví hiền tài như “ngôi sao sáng trên trời cao, mà sao sáng thì ắt chầu về Bắc thần”, cũng như những người tài phải phò trợ cho thiên tử mình. Những người hiền mà không được đời dùng, dấu đi tài năng cũng như sao bị che đi vẻ lấp lánh, không như ý trời đã định.
Tiếp theo, tác giả nhấn mạnh về những bậc hiền sĩ ở ẩn khi thời thế suy vi, đất nước nhiều biến cố. Có người ra làm quan thì cũng không dám lên tiếng, sợ hãi, họ như những kẻ “gõ mõ canh cửa”, “chết đuối trên cạn” để mà lẩn tránh việc đời. Tác giả đã đề cập đến vấn đề ấy một cách đầy tinh tế, sử dụng các thành ngữ, từ ngữ có tính tượng trưng để nói mà không xâm phạm đến những người tri thức coi trọng lòng tự tôn. Những lời viết ra khiến cho người nghe, người đọc không khỏi không suy ngẫm, để người hiền tự nhìn lại bản thân, tác giả tin rằng với những người sáng suốt, họ sẽ hiểu những điều mà con chữ phản ánh.
Những lời cầu hiền thiết tha, chân thành lại vừa khiêm tốn, thể hiện được tấm lòng của một vị vua anh minh được tác giả viết đầy xúc động: “Này trẫm đang ghé chiếu lắng nghệ, ngày đêm mong mỏi…. Hay đang thời đổ nát chưa thể phụng sự chăng?”.
Để thuyết phục những tri thức xưa, Ngô Thì Nhậm nêu lên thực trạng đất nước lúc bấy giờ còn nhiều điều đáng lo ngại. Triều đại lúc này đang buổi đầu chập chững, luật pháp, kỷ cương còn mắc nhiều khiếm khuyết, chốn biên ải còn trăm điều lo toan, trăn trở, một mình vừa sao có thể vẹn tròn nếu không được sự giúp sức, phò trợ từ những vị đức độ, tài năng. Ngặt nỗi, nhân dân còn chưa lấy lại sức, vua cũng vừa mới lên ngôi lòng dân khắp nơi chưa thấu rõ bởi vậy mà ngày đêm lo lắng, những khó khăn cứ chồng chất ngày một thêm. Mọi người đều hiểu được rằng: “Một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn, mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình”. Mà trong trời đất, bốn phương nơi đâu chắc hẳn cũng có người tài, dù nước lúc hưng, lúc suy những nhân tài thì đâu thể thiếu “…trên dải đất văn hiến rộng lớn như thế này há lại không có một người tài danh nào ra phò giúp cho chính quyền buổi bẩn đầu như trầm hay sao?”.
Sau những lý lẽ thấu tình đạt lý ấy, tác giả công tuyên thỉnh nhiều chính sách khác nhau nhưng quy chung một mục đích là chiêu mộ kẻ sĩ trong thiên hạ. Mọi người dân không phân biệt nam nữ, thành phần hay tầng lớp nào, nếu có tài năng, học thức đều được quyền ứng cử, một tình thần dân chủ được triển khai rõ rệt trong nhân dân, ai cũng có quyền bình đẳng góp sức mình cho đất nước “Vậy ban chiếu xuống, quan việc lớn nhỏ và dân chúng trăm họ ai có tài năng học thuật, mưu hay giúp ích cho đời, đều cho phép được dâng thư bày tỏ công việc”. Những người có nghề giỏi, nghiệp hay, những người có tài năng mà lâu nay bị giấu kín cũng tự tiến cử giúp đời. Tất cả hãy vì nước mà gắng sức mà tụ họp về để cùng nhau mưu lược, kế sách phát triển quốc gia, nước nhà. ” Này trời trong sáng, đất thái bình, chính là lúc người hiền gặp hội gió mây… cùng nhau hưởng phúc lành tôn vinh”.
Bài chiếu tuy ngắn gọn mà chứa đựng cả một tấm lòng thiết tha với dân với nước của vị anh hùng áo vải Nguyễn Huệ. Luôn mong cầu sự ấm êm cho nhân dân, hành động vì sự bình yên, thịnh trị của xã tắc, vương triều. Một vị vua suốt đời mình tâm huyết mọi việc vì cuộc sống phồn vinh cho nhân dân. Từng lời, từng chữ viết ra đều thấm đẫm tinh thần dân tộc, thấm đẫm tình cảm lớn của một người trị vì cánh cánh nỗi lòng phát triển, dựng xây nước nhà.
“Chiếu cầu hiền” có ngôn ngữ trang trọng, lời văn đầy sự cầu thị khoan dung, khi lại thiết tha, mãnh liệt, hệ thống những lập luận thuyết phục và chặt chẽ. Tác phẩm đã cho thấy trước tầm nhìn xa trông rộng và sự chân thành của một với vua yêu nước coi trọng hào kiệt, nhân tài. Bài chiếu giúp em hiểu và trân trọng hơn giá trị của trí thức, vai trò của người giỏi đối với đất nước. Em sẽ cố gắng trau dồi bản thân, rèn sức luyện tài để sau này làm một công dân có ích cho nước nhà, góp sức tài vào sự phát triển của đất nước Việt Nam.
Mẫu 05: Phân tích tác phẩm Chiếu cầu hiền hấp dẫn nhất
Cầu hiền vốn là chủ trương, chiến lược của nhiều quốc gia phương Đông cổ đại trong đó có Việt Nam, bởi đây là một trong những phương thức hữu hiệu nhất để kêu gọi hiền tài về phụng sự cho đất nước. Chiếu cầu hiền ra đời khoảng những năm 1788 – 1789, khi đất nước vừa trải qua một thời kỳ loạn lạc, các nhà trí thức của triều đại cũ mang tâm lý bi quan, chán nản, bất hợp tác, tư tưởng trung quân mù quáng, không hiểu rõ triều đại mới, nên họ chọn cách trốn tránh, ở ẩn. Trong khi đất nước lại đang có nhiều khó khăn, vương triều mới thành lập căn cơ còn chưa vững, rất cần người tài giúp nước, nhận biết được tình hình đó Nguyễn Huệ đã chủ trương ra chiếu cầu hiền nhằm thuyết phục sĩ phu Bắc Hà vốn là trí thức của triều đại cũ (Lê -Trịnh) ra giúp nước, đồng thời bình ổn chính trị, tránh những cuộc phản loạn đến từ tàn dư của triều đại cũ. Chiếu cầu hiền do Ngô Thì Nhậm cận thần đắc lực của vua Quang Trung chắp bút thay.
Ngô Thì Nhậm (1746 – 1803), quê ở huyện Thanh Trì, Hà Nội, ông đỗ tiến sĩ vào năm 1775, sau đó vào làm quan dưới triều Lê. Đến năm 1778 triều Lê – Trịnh sụp đổ, nhận thức được quy luật chuyển giao triều đại là tất yếu, nên ông nhanh chóng đi theo triều Tây Sơn, ở đây ông rất được tin dùng và có nhiều trọng trách lớn trong triều đình.
Cũng như nhiều văn bản chính luận khác, Chiếu cầu hiền cũng có một bố cục hết sức chặt chẽ, trước tiên ở phần mở đầu tác giả nêu ra một chân lý, và chân lý ở đây chính là đạo ứng xử của người hiền tài. Rằng người hiền tài, trí thức trên đời đã được định sẵn là phải giúp vua giúp nước, nếu làm trái đạo lý muôn đời ấy là trái với thiên đạo sinh ra người hiền. Để củng cố niềm tin cho người đọc, người nghe Ngô Thì Nhậm đã hết sức khéo léo và tinh tế khi sử dụng hai hình ảnh so sánh để trình bày quy luật của mình một cách thuyết phục. Hình ảnh thứ nhất ấy là “Người hiền xuất hiện ở đời, thì như ngôi sao sáng trên trời cao”, thứ hai ấy là ví thiên tử với “ngôi Bắc Thần”, một vì sao nằm ở vị trí trung tâm bầu trời. Từ hai hình ảnh so sánh ấy Ngô Thì Nhậm muốn truyền tải một thông điệp ngầm rằng nếu sao sáng xưa nay luôn chầu về Bắc Thần thì trong mối quan hệ tương quan ấy, tất yếu rằng người hiền tài cũng phải trở thành sứ giả cho thiên tử. Từ đó ta nhận ra được sự thông thái của tác giả khi tinh tế dùng quy luật của tự nhiên của tạo hóa để xây dựng và khẳng định quy luật giữa người hiền tài và quân vương, hướng người đọc và người nghe đến ngụ ý rằng đó đã là đạo trời không thể làm khác được. Một tác dụng thứ hai nữa là hình ảnh sao sáng chầu về Bắc Thần là những hình ảnh nằm trong sách Luận Ngữ của Khổng Tử, một thánh nhân của giới trí thức xưa, chính vì thế có sức thuyết phục mạnh mẽ với các trí thức Bắc Hà.
Sau khi khẳng định chân lý đạo ứng xử của hiền tài, Ngô Thì đi vào phân tích cách ứng xử của sĩ phu Bắc Hà và nêu lên thực trạng đất nước ta lúc bấy giờ. Đầu tiên về cách ứng xử của sĩ phu Bắc Hà, Ngô Thì Nhậm đã dùng rất nhiều những điển tích điển cố và các hình ảnh tượng trưng để nói về cách ứng xử của sĩ phu, trí thức với triều đại mới. Trước hết là “ở ẩn trong ngòi khe, trốn tránh việc đời” đó là bỏ đi ở ẩn, ví như Nguyễn Du, có người “kiêng dè không dám lên tiếng”, “gõ mõ canh cửa”, hành xử tích cực hơn một chút là ra làm quan, nhưng thái độ cầm chừng, giữ chức vụ thấp kém, không đóng góp gì cho đất nước. Nhưng dù có lựa chọn khác nhau nhưng điểm chung của họ cũng tựu lại ở một bi kịch “chết đuối trên cạn mà không biết”. Việc dùng nhiều điển tích, điển cố và các hình ảnh tượng trưng này có tác dụng tạo nên sự tế nhị trong phê phán, không khiến người nghe phải xấu hổ, mất lòng, đặc biệt đây lại là giới tri thức có học vấn và lòng tự trọng vô cùng cao. Hơn thế nữa các sĩ phu Bắc Hà này luôn có một tư tưởng coi thường Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải, không đủ chữ nghĩa để họ phải phụng sự, việc Ngô Thì Nhậm viết như vậy thể hiện được tầm kiến thức sâu rộng, thể hiện tài năng uyên bác của vua Quang Trung để thuyết phục các sĩ phu này. Sau khi chỉ ra cách ứng xử và phê phán ngầm các sĩ phu Bắc Hà, Ngô Thì Nhậm bắt đầu đi vào tìm hiểu nguyên nhân bằng cách đặt ra hai câu hỏi “trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng?” và “Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự chư hầu chăng?”. Việc đặt ra hai câu hỏi liên tiếp theo thế lưỡng đao nhằm nhấn mạnh sắc thái phủ định, buộc người đọc phải xem xét lại cách ứng xử của mình mà ra giúp dân giúp nước cho phải đạo.
Không chỉ nêu lên cách ứng xử của sĩ phu Bắc Hà, Ngô Thì Nhậm còn tiếp tục nêu lên những hiện trạng của đất nước để lay tỉnh các sĩ phu Bắc Hà, đánh động vào tấm lòng yêu nước thương dân, tấm lòng muốn cống hiến cho đất nước của các trí thức này. Tác giả lần lượt chỉ ra ba cái thực trạng và đất nước đang phải đối mặt, thứ nhất là tính chất của thời đại đó buổi đầu của nền đại định, mới dẹp yên thù trong giặc ngoài, mới bắt tay vào công cuộc xây dựng nghiệp đế vương cho nên còn nhiều thiếu sót (kỷ cương triều chính còn nhiều khiếm khuyết, công việc ngoài biên đương phải lo toan, dân còn mệt nhọc chưa lại sức, đức hóa của Nguyễn Huệ còn chưa kịp nhuần thấm khắp nơi), có thể nói là khó khăn chồng chất khó khăn. Hiện trạng thứ hai được Ngô Thì Nhậm nêu lên thông qua chân lý tất yếu rằng “một cái cột không thể đỡ nổi một căn nhà lớn”, tương quan với đó thì “mưu lược một người không thể dựng nghiệp trị bình”. Từ đó khai mở cho các trí thức hiểu rằng một mình Nguyễn Huệ không thể đủ sức để đảm đương tất cả những công việc khó khăn, thử thách chồng chất. Và cuối cùng tác giả nêu lên một thực tế rõ ràng thiên hạ có rất nhiều người tài, cũng như lời Nguyễn Trãi trong Đại Cáo Bình Ngô rằng “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau/Song hào kiệt đời nào cũng có”. Và thông qua 3 tiền đề, 3 hiện trạng rõ ràng như thế của đất nước, từ đó đi đến một mục đích duy nhất là lay tỉnh các sĩ phu Bắc Hà, những hiền tài đang trốn tránh, cầm chừng phải thay đổi cách ứng xử của mình, giúp đỡ Nguyễn Huệ để xây dựng đất nước.
Sau những chân lý và hiện trạng của đất nước như thế thì Ngô Thì Nhậm đi đến mở ra đường lối cầu hiền và khơi gợi những viễn cảnh tốt đẹp của đất nước. Nguyễn Huệ đã mở ra những con đường rộng mở cho người hiền tài: Tất cả mọi người từ quan đến dân miễn là là có tài năng, mưu lược đều có quyền dâng sớ để tỏ bày việc nước, đóng góp hợp lý sẽ được cất nhắc, nếu viển vông thì cũng không bắt tội; thứ hai là con đường tiến cử cũng rộng mở, dễ thực hiện, cho phép quan lại tiến cử người có tài, có nghề giỏi, rồi tùy mà sử dụng, cũng cho phép dâng sớ tự tiến cử. Ngô Thì Nhậm cũng nêu lên những tương lai tốt đẹp đang mở ra, trước hết là viễn cảnh “cùng nhau hưởng phúc lành tôn vinh”, để khích lệ động viên hiền tài, thể hiện niềm tin vào tương lai đất nước đang mở ra những cơ hội tốt đẹp cho người hiền “trời trong sáng đất thanh bình, cũng là lúc người hiền gặp hội gió mây”.
Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm không chỉ thể hiện hiện chủ trương sáng suốt của nhà Tây Sơn mà còn có vai trò động viên, kêu gọi trí thức Bắc Hà tham gia xây dựng đất nước, từ đó mang đến những nhận thức đúng đắn về vai trò và trách nhiệm đối với công cuộc xây dựng đất nước của mỗi một con người, không chỉ riêng gì các bậc hiền tài. Văn bản thành công bởi nghệ thuật lập luận chặt chẽ, lí lẽ thuyết phục, đặc biệt tuy là văn chính luận nhưng giọng văn rất tha thiết, chân thành có sức lay động mạnh mẽ.
Văn học Việt Nam đã từng có những áng văn nghị luận chính trị – xã hội bất hủ từ thời xưa như áng văn Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm thời Vua Quang Trung mới dựng nước là một điển hình. Chiếu cầu hiền là hành động thường xuyên của Vua để kêu gọi những bậc nhân tài ra sức giúp nước, không ẩn mình, không phí đi trí thông minh của bản thân, một cách kêu gọi đầy tinh tế là vậy. Qua bài soạn Chiếu cầu hiền cùng mẫu văn phân tích tác phẩm hay của lessonopoly chúng tôi đã chia sẻ ở trên bạn có thể tham khảo để có những phần chuẩn bị bài tốt nhất.